Người đăng: hoctran
Lên trời là
niềm hy vọng lớn nhất và là hoài bão cuối cùng của những người tin vào Đức
Giêsu Kitô. Lên trời không là chuyện viễn vông như chú Cuội lên cung trăng,
cũng không chỉ là “tham quan” mặt trăng, là “khám phá” sao Hỏa, một hành tinh
nào đó, hoặc khám phá “lỗ đen” trong vũ trụ. Lên trời là để sống đời trường
sinh và đồng hưởng thiên phúc với Thiên Chúa, sau khi thân xác chúng ta được
sống lại.
Mừng lễ Đức
Mẹ lên trời cả hồn và xác là nhắc nhớ chúng ta về niềm xác tín: “Tôi tin
xác loài người ta sẽ sống lại” (Kinh Tin Kính). Niềm tin này được củng cố
bằng tín điều Đức Mẹ mông triệu. Ngày 1-11-1950, ĐGH Piô XII ban hành Thông
điệp “Munificentissimus Deus” (Thiên Chúa Quảng Đại), long trọng định tín Mẹ
Maria linh hồn và xác lên trời là một tín điều buộc mọi người phải tin.
Đại lược
thông điệp bất hủ này là: “Sau khi chúc tụng lòng từ bi nhân hậu của Thiên
Chúa đã yêu thương quan phòng làm êm dịu những khổ đau, đem lại niềm an vui cho
các dân tộc, Đức Thánh Cha nêu cao sự kiện ơn Chúa thương, dù giữa thời buổi
nhiều người sai lạc chân lý và nhân đức, vẫn có nhiều cách biểu lộ đức tin,
lòng sùng mến Mẹ Maria và những con cái Mẹ vẫn được khuyến khích chiêm niệm
những đặc ân của Mẹ. Thật vậy, từ muôn đời, Thiên Chúa đã đặc biệt yêu thương
Mẹ và rồi ban cho Mẹ dạt dào những đặc ân mà Giáo hội nhận biết và khám phá ra.
Nhưng thời đại của chúng ta đã được dành riêng để chiêm ngưỡng đặc ân Đức Mẹ
hồn xác lên trời”.
Nói đến việc
“lên trời” là ngụ ý sự chết, liên quan Ngày Cánh Chung. Có chết rồi mới sống
lại và lên trời. Mà muốn làm công dân Nước Trời thì phải sống trọn vẹn các Giới
Răn của Thiên Chúa một cách ngoan cường và anh dũng. Đó là điều chắc
chắn!
MẶC KHẢI
Đền Thờ
Thiên Chúa ở trên trời mở ra, và rồi có điềm lớn xuất hiện trên trời: “Một
người Phụ Nữ, mình khoác mặt trời, chân đạp mặt trăng, và đầu đội triều thiên
mười hai ngôi sao” (Kh 12:1). Thật uy nghi và vinh hiển, nhưng cũng đầy
gian khổ: “Bà có thai, đang kêu la đau đớn và quằn quại vì sắp sinh con”
(Kh 12:2). Đó là điều chắc chắn, vì không có vinh quang nào lại không có đau
khổ. Chính Đức Kitô cũng đã chịu đau khổ tột cùng rồi mới phục sinh vinh thắng.
Lại có điềm
khác xuất hiện trên trời: “Một Con Mãng Xà đỏ như lửa, có bảy đầu và mười
sừng, trên bảy đầu đều có vương miện. Đuôi nó quét hết một phần ba các ngôi sao
trên trời mà quăng xuống đất. Rồi Con Mãng Xà đứng chực sẵn trước mặt người Phụ
Nữ sắp sinh con, để khi bà sinh xong là nó nuốt ngay con bà” (Kh 12:3-4).
Nhưng “người con trai này sẽ dùng trượng sắt mà chăn dắt muôn dân” (Kh 12:5a).
Sau đó, “Con bà được đưa ngay lên Thiên Chúa, lên tận ngai của Người” (Kh
12:5b), còn “người Phụ Nữ thì trốn vào sa mạc”, nơi mà “Thiên Chúa đã dọn sẵn
cho bà một chỗ ở, để bà được nuôi dưỡng ở đó, trong vòng một ngàn hai trăm sáu
mươi ngày” (Kh 12:6). Khi đó, Thánh Gioan nghe có tiếng hô to trên trời: “Thiên
Chúa chúng ta thờ giờ đây ban ơn cứu độ, giờ đây biểu dương uy lực với vương
quyền, và Đức Kitô của Người giờ đây cũng biểu dương quyền bính, vì kẻ tố cáo
anh em của ta, ngày đêm tố cáo họ trước toà Thiên Chúa, nay bị tống ra ngoài”
(Kh 12:10). Đó chính là Giờ Cứu Độ, là khoảnh khắc cuối cùng, là buổi cánh
chung, là ngày tận thế, là lúc Chúa Giêsu giáng lâm.
Cựu ước cũng
đã tiên tri về Đức Mẹ: “Hoàng hậu đứng bên hữu Đức Vua, mặc đồ trang điểm
vàng ròng lộng lẫy” [Tv 44 (45):10]. Có lời ca vang: “Tôn nương hỡi,
xin hãy nghe nào, đưa mắt nhìn và hãy lắng tai, quên dân tộc, quên đi nhà thân
phụ” [Tv 44 (45):11]. Một khi đã có Thiên Chúa rồi, được diện kiến Thánh
Nhan, thì người ta vô cùng hạnh phúc, thế nên không còn cần gì khác nữa: “Người
là Chúa của bà” [Tv 44 (45):12]. Và người đó thể hiện niềm hạnh phúc tuyệt
vời cùng những người khác: “Lòng hoan hỷ, đoàn người tiến bước, vẻ tưng
bừng, vào tận hoàng cung” [Tv 44 (45):16].
ỨNG
NGHIỆM
Thiên Chúa
của người sống chứ không phải của người chết. Thánh Phaolô xác định: “Đức
Kitô đã trỗi dậy từ cõi chết, mở đường cho những ai đã an giấc ngàn thu”
(1 Cr 15:20). Tại sao? Vì “nếu tại một người mà nhân loại phải chết, thì
cũng nhờ một người mà kẻ chết được sống lại” (1 Cr 15:21). Thánh Phaolô
giải thích: “Như mọi người vì liên đới với Ađam mà phải chết, thì mọi người
nhờ liên đới với Đức Kitô, cũng được Thiên Chúa cho sống. Nhưng mỗi người theo
thứ tự của mình: mở đường là Đức Kitô, rồi khi Đức Kitô quang lâm thì đến lượt
những kẻ thuộc về Người. Sau đó mọi sự đều hoàn tất, khi Người đã tiêu diệt hết
mọi quản thần, mọi quyền thần và mọi dũng thần, rồi trao vương quyền lại cho
Thiên Chúa là Cha” (1 Cr 15:22-24). Thật vậy, Đức Kitô phải nắm
vương quyền cho đến khi Thiên Chúa đặt mọi
thù địch dưới chân Người: Thù địch cuối cùng bị tiêu diệt là sự chết
(1 Cr 15:25), nghĩa là Thiên Chúa đã đặt muôn loài dưới chân Đức Kitô. Theo
Thánh Phaolô, khi nói muôn loài thì dĩ nhiên không kể Đấng đặt muôn loài dưới
chân Đức Kitô. Vì “lúc muôn loài đã quy phục Đức Kitô, thì chính Người, vì
là Con, cũng sẽ quy phục Đấng bắt muôn loài phải quy phục Người; và như vậy, Thiên
Chúa có toàn quyền trên muôn loài” (1 Cr 15:28). Lý luận
của Hiền triết Phaolô thật là mạch lạc và tuyệt vời!
Thánh sử
Luca kể: Hồi ấy, cô Maria vội vã lên đường, đến miền núi, vào một thành thuộc
chi tộc Giuđa, vào nhà ông Dacaria và chào hỏi chị Êlisabét. Chị Êlisabét vừa
nghe tiếng cô em Maria chào thì đứa con trong bụng nhảy lên, và chị Êlisabét
được đầy tràn Thánh Thần, liền nói: “Em được chúc phúc hơn mọi người phụ
nữ, và người con em đang cưu mang cũng được chúc phúc” (Lc 1:42). Rồi chị
Êlisabét nói tiếp: “Bởi đâu tôi được Thân Mẫu Chúa tôi đến với tôi thế này?
Vì này đây, tai tôi vừa nghe tiếng em chào thì đứa con trong bụng đã nhảy lên
vui sướng. Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã
nói với em” (Lc 1:43-45).
Vấn đề là
đức tin, mà phải tin vững vàng chứ không thể mơ hồ. Đức Mẹ diễm phúc nhờ đức
tin kiên vững. Điều này nhắc chúng ta phải xem lại đức tin của chính mình!
Nghe chị
Êlisabét “khen” vậy, Đức Maria hân hoan dâng lời ca ngợi Chúa mà y như thơ vậy
(Lc 1:46-55):
Linh hồn
tôi ngợi khen Đức Chúa, thần trí tôi hớn hở vui mừng vì Thiên Chúa, Đấng cứu độ
tôi.
Phận nữ tỳ hèn mọn, Người đoái thương nhìn tới;
Từ nay, hết mọi đời sẽ khen tôi diễm phúc.
Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả, danh Người thật chí thánh chí tôn!
Đời nọ tới đời kia, Chúa hằng thương xót những ai kính sợ Người.
Chúa giơ tay biểu dương sức mạnh, dẹp tan phường lòng trí kiêu căng.
Chúa hạ bệ những ai quyền thế, Người nâng cao mọi kẻ khiêm nhường.
Kẻ đói nghèo, Chúa ban của đầy dư, người giàu có, lại đuổi về tay trắng.
Chúa độ trì Ítraen, tôi tớ của Người, như đã hứa cùng cha ông chúng ta,
Vì Người nhớ lại lòng thương xót dành cho tổ phụ Ápraham và cho con cháu đến muôn đời.
Phận nữ tỳ hèn mọn, Người đoái thương nhìn tới;
Từ nay, hết mọi đời sẽ khen tôi diễm phúc.
Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả, danh Người thật chí thánh chí tôn!
Đời nọ tới đời kia, Chúa hằng thương xót những ai kính sợ Người.
Chúa giơ tay biểu dương sức mạnh, dẹp tan phường lòng trí kiêu căng.
Chúa hạ bệ những ai quyền thế, Người nâng cao mọi kẻ khiêm nhường.
Kẻ đói nghèo, Chúa ban của đầy dư, người giàu có, lại đuổi về tay trắng.
Chúa độ trì Ítraen, tôi tớ của Người, như đã hứa cùng cha ông chúng ta,
Vì Người nhớ lại lòng thương xót dành cho tổ phụ Ápraham và cho con cháu đến muôn đời.
Những lời
Đức Mẹ nói chứa đầy sự khiêm nhường, lòng tín thác và lòng yêu thương. Đó cũng
là lời kinh Magnificat mà Giáo hội vẫn dùng để cầu nguyện hằng ngày, đặc biệt
trong giờ kinh Thần vụ (kinh Nhật tụng).
Thánh sử
Luca kể: “Đức Maria ở lại với bà Êlisabét độ ba tháng, rồi trở về nhà”
(Lc 1:56). Đức Mẹ không chỉ đi thăm chị họ theo phép xã giao mà còn là để “báo
tin mừng”, nhất là để phục vụ bà chị đang mang thai bé Gioan Tẩy giả. Đức Mẹ là
một nữ-tu-không-áo-dòng, không đi tu ngày nào, cũng chưa một lần tiên khấn, đơn
khấn hoặc vĩnh khấn, nhưng Đức Mẹ đã anh dũng và kiên cường sống trọn vẹn ba
lời khấn: Thanh tuân, thanh bần, và thanh khiết. Trên cả tuyệt vời. Một tấm
gương chói ngời mà mọi người đều phải “soi” vào.
Lạy
Chúa, chúng con tạ ơn Ngài đã ban cho chúng con một người Mẹ Thánh tuyệt vời.
Xin thương giúp chúng con biết khiêm nhường phục vụ và “xin vâng” như Mẹ trong
mọi hoàn cảnh, để chúng con chắc chắn được cùng Mẹ vui hưởng phúc trường sinh.
Chúng con cầu xin nhân Danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Con Yêu Dấu của Mẹ, Sư Phụ và
Đại Huynh Trưởng của chúng con. Amen.
Trầm Thiên Thu
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét