July 20, 2012 By Phaolo
Chúng ta có thể đặt nhan đề cho Chúa Nhật XVI
này là “Tấm Lòng của Vị Mục Tử đích thật”.
Gr 23: 1-6
Lên
án các vị mục tử vô trách nhiệm của dân Ít-ra-en dẫn đưa dân đến cảnh nước mất
nhà tan, ngôn sứ Giê-rê-mi-a loan báo rằng Thiên Chúa sẽ đích thân nắm giữ vận
mệnh dân Ngài và sẽ ban cho họ một vị mục tử đích thật, thuộc dòng dõi Đa-vít,
Đấng ấy sẽ chăn dắt dân trong công minh chính trực.
Ephesians 2:13-18
Trong
thư gởi các tín hữu Ê-phê-sô, thánh Phao-lô cho thấy Đức Ki-tô chính là Đấng
quy tụ dân Do thái và lương dân trong bình an và hòa giải để chỉ có một dân duy
nhất và một thân thể duy nhất.
Mc 6: 30-34
Trong
bài tường thuật của thánh Mác-cô, Đức Giê-su hành xử như một vị mục tử đích thật,
vị mục tử Mê-si-a được loan báo trong bài đọc I. Thương đám đông dân chúng “bơ
vơ như đàn chiên không có người chăn dắt”, Ngài quy tụ họ, trước tiên nuôi dưỡng
họ bằng lời hằng sống của Ngài, và sau đó, cho họ được no thỏa bằng bánh hóa
nhiều, tiên trưng bàn tiệc Thánh Thể.
BÀI ĐỌC I (Gr 23: 1-6)
Như
ngôn sứ Ê-dê-ki-en, ngôn sứ Giê-rê-mi-a sống vào giai đoạn bi thảm nhất của
vương quốc Giu-đa, dưới những cuộc tấn công của đạo quân Ba-by-lon, vào đầu thế
kỷ thứ sáu trước Công Nguyên.
Sấm
ngôn của chương 23 nầy được định vị giữa hai cuộc tấn công của quân Ba-by-lon
vào Giê-ru-sa-lem. Cuộc tấn công thứ nhất vào năm 597, thành đô Giê-ru-sa-lem bị
chiếm lần thứ nhất và cuộc lưu đày lần thứ nhất; cuộc tấn công thứ hai vào năm
587, thành đô Giê-ru-sa-lem bị tàn phá, Đền Thờ bị phá hủy và những cuộc lưu
đày mới.
Trái
với ngôn sứ Ê-dê-ki-en, ngôn sứ Giê-rê-mi-a đã không bị lưu đày; ông vẫn ở
Giê-ru-sa-lem và cực lực tố cáo các vị lãnh đạo, đời cũng như đạo, phải chịu
trách nhiệm về tai họa bi thảm này.
Tuy
nhiên, ngay ở giữa lòng thành đô tang thương nầy, vị ngôn sứ thắp lên ngọn lửa
hy vọng: Thiên Chúa vẫn trung tín, Người không bỏ rơi dân Người; đến thời đến
buổi, Người sẽ sai phái một vị mục tử đích thật đến chăn dắt họ.
1. Những mục tử vô trách nhiệm.
Đó là
các vua vương quốc Giu-đa mà vị ngôn sứ nhắm đến trước tiên (tước hiệu mục tử
được ban cho các vị vua ở Đông Phương xưa). Ông trách cứ họ là đã không trung
thành với sứ mạng của mình, đã “hành xử như những nhà chính trị chứ không như
những con người của Thiên Chúa”. Đoạn văn mà chúng ta đọc hôm nay là phần đầu của
chương 23, chương kết thúc “sách chống lại các vua”.
Nhưng
bên kia các vua, Giê-rê-mi-a ngỏ lời với toàn thể tầng lớp lãnh đạo, đời cũng
như đạo, những người mà nhiều lần vị ngôn sứ gọi họ tước hiệu mục tử nầy (2: 8;
10: 21; 25: 34). Như ngôn sứ đã nói trước đó, những vị lãnh đạo của dân đã coi
thường quyền lợi và công bình; họ đã sống một cuộc sống hưởng thụ phù phiếm; họ
đã xây cho mình những dinh thự đền đài tráng lệ mà không ngó ngàng gì đến cuộc
sống của dân chúng (22: 3, 13; vân vân). Cuối cùng, họ đã đưa dân chúng lâm vào
cảnh lầm than nước mất nhà tan và phải tản mác khắp nơi: “Khốn thay những mục tử
đã làm cho đàn chiên trong đồng cỏ của Ta phải tản lạc chết chóc”. Không chỉ những
người phải bị lưu đày ở đất khách quê người, nhưng cũng biết bao người đã phải
rời Giê-ru-sa-lem tỵ nạn ở miền quê hẻo lánh, vài người trốn chạy sang tận bên
Ai-cập.
“Ta sẽ
hỏi thăm các ngươi về những hành vi ngang trái của các ngươi”. Quả thật án phạt
đã không chậm trể. Vua Giơ-hô-gia-khin bị dẫn đi giam cầm ở Ba-by-lon. Thành phần
ưu tú bị lưu đày lần thứ nhất vào năm 597 trước Công Nguyên (2V 24: 10-16).
2. Sứ điệp tràn đầy hy vọng: vị Mục Tử
Mê-si-a.
Sau bản
cáo trạng nghiêm khắc nầy, vị ngôn sứ công bố một sứ điệp tràn đầy hy vọng. Bởi
vì các vị mục tử đã không chu toàn sứ mạng của mình, Thiên Chúa sẽ can thiệp:
Người sẽ đích thân đảm nhận việc chăn dắt dân Người; Người sẽ tập hợp đàn chiên
của Người bị phân tán khắp nơi và đưa chúng về đồng cỏ của chúng.
Đây
là một trong những giấc mơ lớn lao đã làm nức lòng dân chúng; họ mong chờ thời
Mê-si-a đến để thống nhất quốc gia Ít-ra-en. Việc phân tranh giữa các bộ tộc
phương Bắc và các bộ tộc phương Nam, mặc dầu đã xa xưa, nhưng vẫn còn để lại nỗi
đau trong lòng mọi người. Cuộc sụp đổ của vương quốc phương Bắc đã kéo theo một
cuộc tản mác đầu tiên, hoặc do phải trốn chạy hoặc do bị lưu đày ở Át-sua. Cuộc
sụp đổ vương quốc phương Nam gây nên những hậu quả còn thậm tệ hơn.
Trong
lời sấm của vị ngôn sứ, chính Đức Chúa sẽ đảm nhận vai trò của vị mục tử nhân
lành, Người sẽ tập hợp đàn chiên của Người vào trong đồng cỏ của chúng. Sấm
ngôn loan báo viễn cảnh của cuộc hồi hương trở về từ chốn lưu đày và từ những
nơi dân phải lưu lạc tha hương. Đức Chúa sẽ đem lại cho dân Ngài niềm vui hưởng
cảnh thái bình thịnh trị.
3. Chân dung của vị mục tử lý tưởng.
Sau
cùng, sấm ngôn loan báo vị mục tử lý tưởng: “Nầy đây sẽ đến thời kỳ Ta khiến mọc
lên cho nhà Đa-vít một Mầm Non công chính”.
“Nầy
đây sẽ đến những thời kỳ”: Đây là biểu thức mà ngôn sứ Giê-rê-mi-a rất tâm đắc
để giới thiệu một thị kiến tương lai. Có thể ông mượn biểu thức nầy từ ngôn sứ
A-mốt (Amos 4:2; 9:13). Tước hiệu “Mầm Non” đã trở thành tước hiệu Mê-si-a. Tước
hiệu nầy đã xuất hiện trước tiên tại I-sai-a (4: 2); Giê-rê-mi-a đã trích dẫn
tước hiệu nầy hai lần (một ở đây và một nơi khác: 33: 15); chúng ta sẽ gặp lại
tước hiệu nầy ở ngôn sứ Da-ca-ri-a (3: 8; 6: 12).
Dưới
triều đại vua Mê-si-a thuộc dòng dõi Đa-vít nầy, “miền Giu-đa sẽ được cứu
thoát, miền Ít-ra-en sẽ an cư lạc nghiệp”. Giu-đa và Ít-ra-en được nêu lên như
hai miền của chỉ một vương quốc, như vào thời vua Đa-vít, dân Thiên Chúa chỉ là
một dân tộc duy nhất.
Người
ta sẽ gọi vị mục tử Mê-si-a nầy là: “Đức Chúa, sự công chính của chúng ta”.
Ngài sẽ phân xử toàn dân trong công minh chính trực.
BÀI ĐỌC II (Ephesians 2:13-18)
Chúng
ta tiếp tục đọc thư của thánh Phao-lô gởi các tin hữu Ê-phê-sô. Trong đoạn
trích của Chúa Nhật trước, thánh Phao-lô đã trình bày kế hoạch cứu độ của Thiên
Chúa được thực hiện trong Đức Ki-tô. Trong đoạn trích hôm nay, thánh nhân mô tả
sự hòa giải mà Đức Ki-tô thực hiện: chết cho mọi người, cả người Do thái lẫn
lương dân. Như vậy, Đức Ki-tô muốn kiến tạo một nhân loại mới và quy tụ họ vào
trong Giáo Hội của Ngài.
1. Người Ki-tô hữu gốc lương dân.
Trước
tiên, thánh Phao-lô ngỏ lời với những người Ki-tô hữu gốc lương dân, họ chiếm
đa số trong những cộng đoàn Ki-tô hữu miền Tiểu Á. Thánh nhân dùng thành ngữ
“xa-gần” đã được I-sai-a đệ tam, vị ngôn sứ hậu lưu đày, sử dụng rồi (Isaiah
57:19).
Dụng
ngữ nầy đã trở nên phổ biến trong Do thái giáo. Qua dụng ngữ “xa-gần” nầy,
thánh nhân muốn nói rằng những người Ki-tô hữu gốc lương dân, trước kia là những
người xa lạ, bây giờ trở thành những người nhà của Thiên Chúa, vì từ nay họ được
dự phần vào những lời hứa của Giao Ước, bởi vì chính họ cũng được ban ơn tha thứ
tội lỗi.
2. Một dân duy nhất.
Vì thế,
những người Ki-tô hữu, dù gốc lương dân hay gốc Do thái, đều có thể nói: Đức
Ki-tô “là sự bình an của chúng ta”.
Chúng
ta khó mà đo lường được việc liên kết giữa những người Ki-tô hữu gốc lương dân
và những người Ki-tô hữu gốc Do thái đã đem lại tính cách mạng đến mức độ nào
cho các cộng đoàn Ki-tô hữu, ở đó vốn nảy sinh biết bao sự ngộ nhận và lời qua
tiếng lại ở giữa đôi bên.
Những
Ki-tô hữu gốc Do thái ý thức mình là một dân được tuyển chọn và được tách riêng
ra, dân cưu mang Mặc Khải. Họ tự hào về nét đặc thù tôn giáo của họ, việc tuân
giữ lề luật giúp họ khỏi những uế nhiễm của dân ngoại; họ tránh giao tiếp với
những kẻ không chịu cắt bì chừng nào có thể. Trong Đền Thờ Giê-ru-sa-lem, có một
lan can bằng đá cẩm thạch ngăn chia khuôn viên dân ngoại khỏi khuôn viên dân
Ít-ra-en. Khi nói: “Bức tường ngăn cách là sự thù ghét”, thánh Phao-lô ám chỉ đến
bức lan can phân cách nầy. Chắc chắn thánh nhân đã nghĩ đến những kẻ xách động
đồng bào Do thái bắt ngài được tường thuật trong sách Công Vụ 21: 28: “Hỡi đồng
bào Ít-ra-en, giúp một tay nào! Nó kia kìa, tên vẫn đi mọi nơi dạy cho mọi người
những điều phản dân, phạm đến Lề Luật và Nơi Thánh nầy! Nó còn đem cả mấy người
Hy lạp vào cả Đền Thờ mà làm cho Nơi Thánh nầy ra ô uế”.
Ngược
lại, những thái độ bài Do thái thường xảy ra, như được chứng thực trong nhiều
thành phố của người Hy lạp, kể cả thành phố A-lê-xan-ri-a. Chúng ta đừng quên
sách Khôn Ngoan được soạn thảo vào giữa thế kỷ thứ nhất trước Công Nguyên, thời
kỳ những người Do thái bị chính quyền quấy nhiễu. Thái độ bài Do thái nầy cũng
gặp thấy trong thế giới Rô-ma, ở đó người ta không ưa những người Do thái vốn
không làm việc vào ngày thứ bảy, cũng như không chỉ đường cho những ai không chịu
cắt bì hỏi đường (như thi sĩ Junéval kể ra vài ví dụ trong bài thơ châm biếm của
ông vào cuối thế kỷ thứ nhất và đầu thế kỷ thứ hai sau Công Nguyên).
Đức
Ki-tô đã hủy bỏ bức tường ngăn cách nầy: tinh thần duy luật khiến những kẻ thực
hành tỉ mĩ Lề Luật tự thu mình lại vào trong thế giới của riêng mình. Luật Mới
không còn chia cách nữa, nhưng hòa giải.
3. Một thân thể duy nhất.
Thánh
Phao-lô thật bạo dạn khi khẳng định rằng: đôi bên, người Ki-tô gốc lương dân và
người Ki-tô hữu gốc Do thái, hình thành nên chỉ một con người duy nhất, một người
mới. Người Ki-tô hữu là một con người được tái tạo và tất cả những người Ki-tô
hữu được quy tụ hình thành nên những chi thể của một thân thể duy nhất, thân thể
của Đức Ki tô.
Thánh
Phao-lô đã sử dụng từ vựng thần học nầy rồi trong các thư gởi các tín hữu
Cô-rin-tô và Cô-lô-sê. Đây là đề tài chủ đạo của thư gởi các tín hữu Ê-phê-sô nầy,
diễn tả ơn gọi phổ quát của Giáo hội.
4. Bình an và hiệp nhất, công trình của Thiên
Chúa Ba Ngôi.
Cuối
cùng, thánh Phao lô cho thấy rằng nhờ Đức Ki tô, “cả đôi bên, chúng ta được
liên kết trong một Thần Khí duy nhất mà đến cùng Chúa Cha”. Nhờ Đức Ki tô, con
đường đến cùng Chúa Cha rộng mở cho tất cả mọi người. Chúa Thánh Thần, Đấng hiệp
nhất Chúa Cha và Chúa Con, dẫn đưa các tín hữu vào trong cung lòng cuộc sống Ba
Ngôi.
TIN MỪNG (Mc 6: 30-34)
Chúa
Nhật tuần trước tường thuật cho chúng ta Đức Giê-su đã sai các tông đồ ra đi
thi hành sứ vụ khắp miền Ga-li-lê. Bây giờ, thánh Mác-cô tường thuật những diễn
biến khi họ trở về. Thánh Mác-cô luôn luôn cho chúng ta bài tường thuật đầy
tình tiết sống động. Vị thánh ký nầy luôn luôn cho chúng ta những đường nét nêu
bật con người của Đức Giê-su.
1. Các tông đồ tụ họp quanh Đức Giê-su.
Danh
xưng “tông đồ” được dùng để chỉ nhóm Mười Hai chỉ xuất hiện ở đây trong Tin Mừng
của ông. Cách dùng nầy được biện minh: các tông đồ đã “được Đức Giê-su sai đi”.
Xin được nhắc lại điều đã được nói trước đây, các tác giả Tin Mừng chung chung
tránh dùng danh xưng “tông đồ” nầy cho nhóm Mười Hai, bởi vì chỉ mình Đức
Giê-su xứng với tước hiệu nầy: Đấng được Chúa Cha sai đi thi hành sứ vụ.
Nhóm
Mười Hai quy tụ lại chung quanh Đức Giê-su, chắc chắn ở Ca-phác-na-um, thành phố
mà Đức Giê-su chọn làm bản doanh cho sứ vụ của Ngài. “Các ông kể lại cho Ngài
biết mọi việc các ông đã làm, và mọi điều các ông đã giảng dạy”. Đây là hai
khía cạnh của một sứ vụ đã được trao gởi cho các ông: lời giảng dạy kèm theo
các dấu chỉ, theo gương Thầy mình. Vào ngày hôm ấy, Đức Giê-su sắp đưa ra cho
các ông một mẫu gương: sau khi đã giảng dạy đám đông dân chúng nhiều điều, Ngài
sẽ cho họ được ăn no nê, khi làm phép lạ bánh hóa nhiều, một trong những dấu chỉ
quan trọng bậc nhất của thừa tác vụ của Ngài.
“Kẻ
lui người tới quá đông”, trong số đó có những kẻ hiếu kỳ còn muốn hỏi các ông
thêm nhiều điều nữa. Trong bối cảnh đó, các ông khó thuật lại cho Đức Giê-su sứ
vụ mà họ vừa mới thi hành theo lệnh của Ngài. Thánh Mác-cô không xác định khung
cảnh, nhưng chỉ ghi lại một chi tiết theo ông có ý nghĩa nhất “nên các ông cũng
chẳng có thì giờ ăn uống nữa”.
Ấy vậy,
các tông đồ mệt mõi. Đức Giê-su lưu ý sự mệt mõi của các ông, vì thế, nếu cứ ở
lại đây, họ không tài nào thoát khỏi đám đông quấy nhiễu nầy: “Anh em hãy lánh
riêng ra một nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi đôi chút”. Thái độ của Đức Giê-su nói
lên tấm lòng của một vị thầy ân cần quan tâm đến các môn đệ mình. Các môn đệ đồng
thuận và xuống thuyền lánh xa một nơi hoang vắng.
2. Lánh xa một nơi khác.
Đây
không là lần đầu tiên Đức Giê-su tìm cách lánh xa đám đông để được ở lại một
mình với các môn đệ và dạy riêng cho họ. Trước đây, thánh Mác-cô ghi nhận, sau
khi giảng dạy cho đám đông nhiều dụ ngôn, “khi chỉ có Thầy trò với nhau, thì
Ngài giải thích hết cho họ” (4: 34). Nhưng việc thầy trò lánh đi như vậy không
phải luôn luôn là dể dàng. Thánh Mác-cô cũng đã còn viết: “Đức Giê-su cùng với
các môn đệ của Ngài lánh về phía Biển Hồ. Từ miền Ga-li-lê người ta lũ lượt đi
theo Ngài” (3: 7). Cũng xảy ra đúng y như vậy trong câu chuyện Tin Mừng hôm
nay.
3. Tấm lòng của đám đông dân chúng.
Việc
dân chúng lũ lượt kéo nhau đến với Đức Giê-su là một trong những nét tiêu biểu
của Tin Mừng Mác-cô, như chúng ta đã ghi nhận rồi. Sự kiện nầy không phải là
không có liên hệ với sự thành công sứ vụ của Ngài.
Thánh
Mác-cô không cho chúng ta biết địa danh, nơi diễn ra cuộc gặp gỡ của đám đông với
Đức Giê-su và các môn đệ của Ngài. Theo Lu-ca, Đức Giê-su “đem các ông đi riêng
ra với mình, lui về thành kia gọi là Bết-xai-đa” (Lc 9: 10), đây là thành phố ở
phía đông nam Biển Hồ, bên kia sông Giô-đan, dòng sông đổ nước vào Biển Hồ. Từ
thành Ca-phác-na-um đến thành Bết-xai-đa khoảng 12 cây số, vì thế có lẽ đám
đông cùng nhau theo đường bộ vượt qua một quảng đường như vậy đến trước cả các
ngài. Cách diễn tả: “nhiều người hiểu ý” gợi lên một mối tương quan gần gũi
thân thiết giữa đám đông dân chúng với Đức Giê-su như theo cách nói của Tin Mừng
Gioan: “Tôi biết chiên của tôi và chiên của tôi biết tôi” (Ga 10: 14).
4. Tấm lòng Mục Tử Mê-si-a.
Lòng
nhiệt thành nầy của đám đông dân chúng trái với ý muốn của Đức Giê-su và các
môn đệ là được lánh riêng một nơi thanh vắng. Ấy vậy, thay vì bực mình, Đức
Giê-su “chạnh lòng thương, vì họ như bầy chiên không người chăn dắt”. Ở đây phảng
phất chủ đề căn bản của Cựu Ước. Dân Ít-ra-en là đàn chiên thương mến của Đức
Chúa. Người đã trao gởi đàn chiên của mình cho các vị mục tử Ít-ra-en chăn dắt.
Nhưng những vị mục tử vô trách nhiệm nầy chỉ nghĩ đến tư lợi của riêng mình mà
không quan tâm đến cảnh sống của đàn chiên Người, khiến đàn chiên của Người phải
lạc lõng bơ vơ. Đức Giê-su sẽ ân cần săn sóc họ và chứng tỏ mình là vị mục tử
Mê-si-a được ngôn sứ Giê-rê-mi-a loan báo. Công việc của người mục tử là tìm kiếm
cho đàn chiên của mình cánh đồng cỏ tốt tươi. Lương thực mà Ngài trao ban cho
đám đông nầy trước hết là Lời Ngài. Chính cái đói nầy phải được đáp ứng trước
tiên: “Ngài bắt đầu dạy dỗ họ nhiều điều”. Phép lại bánh hóa nhiều được nối tiếp
theo sau. Từ xưa Giáo Hội đã ghi nhận điều này là luôn luôn nối kết “hai bàn tiệc”
với nhau: trước hết là bàn tiệc Lời Chúa, tiếp đó là bàn tiệc Thánh Thể.
Khi
ngỏ lời với đám đông suốt ngày hôm ấy quên cả nghĩ ngơi, Đức Giê-su cho các môn
đệ của Ngài một giáo huấn rõ ràng: “người mục tử nhân lành là người hiến dâng
trọn vẹn bản thân của mình cho đàn chiên”.
Bài
tường thuật của Mác-cô chứng tỏ Đức Giê-su ân cần săn sóc các môn đệ mệt mõi của
Ngài sau khi họ hoàn thành sứ vụ, cũng như đám đông dân chúng sau khi họ đi một
quảng đường xa đến gặp Ngài. Đây là một trong số các bài tường thuật cho thấy ở
nơi Đức Giê-su một tấm lòng từ bi nhân hậu: vừa độ nhạy cảm sâu xa của con tim
nhân loại vừa tấm lòng xót thương vô bờ của Thiên Chúa trước nỗi khổ đau của
đám đông dân chúng bơ vơ lạc lõng, tìm nương tựa ở nơi Ngài. Đó cũng là mẫu
gương cho tất cả các vị mục tử của Giáo Hội Ngài, không tìm cách trốn tránh dưới
chiêu bài nầy hay chiêu bài khác, nhưng tìm cách đáp trả nỗi khổ đau của dân
chúng, bởi vì: “Mục Tử nhân lành hy sinh mạng sống mình cho đàn chiên” (Ga 10:
11).
Lm Inhaxiô Hồ Thông
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét