Người
đăng: hoctran | 15.07.2012
(Bài thuyết trình tại Hội thảo do Ủy ban Giới
trẻ tổ chức tại Hải Phòng, từ 10 đến 12-7-2012)
Sáng ngày 17-10-2011, ĐTC đã cho công bố Tông thư tự sắc Porta
Fidei về Năm Đức Tin, trong đó ngài trình bày lý do, mục đích và những
đường hướng chỉ đạo về việc cử hành Năm này.
Mặc dù những năm vừa qua, liên tiếp có nhiều chương trình mục vụ
khác nhau, sáng kiến Năm Đức Tin của Đức Bênêđictô XVI vẫn được hân hoan đón
chào, như một việc cần thiết đáp ứng nhu cầu của Giáo Hội và thế giới hôm nay.
Điều đó cho thấy nhân loại muốn trở về với những giá trị tâm linh đang có nguy
cơ bị quên lãng.
Hội đồng Giám mục Việt Nam đã đưa ra những đề nghị cụ thể để cử
hành Năm Đức Tin, bao gồm những chương trình học hỏi, cử hành và những đề nghị
sinh hoạt đa dạng, nhằm hưởng ứng Năm Đức Tin, đồng thời góp phần cho công cuộc
truyền giáo tại Việt Nam.
Chắc hẳn mỗi chúng ta đã có dịp tiếp cận với bản văn của Tự sắc Porta
Fidei. Trong bài trình bày này, tôi xin được đưa ra mấy ghi nhận sau khi
đọc bản văn quan trọng này, đồng thời đưa ra những gợi ý giúp đào sâu
đời sống đức tin nơi các bạn trẻ công giáo tại đất nước chúng ta.
1- Một Đức tin cần được duyệt lại
Đối với phần lớn các tín hữu, chúng ta có Đạo là vì chúng ta sinh
ra trong những gia đình công giáo. Đời sống đức tin được cha mẹ thông truyền,
được cộng đoàn Kitô hữu ấp ủ và nuôi dưỡng. Người tín hữu lớn lên trong môi
trường giáo xứ, dần dần tham gia các hội đoàn như mọi người cùng trang lứa với
mình. Ít khi họ đặt những vấn nạn về đức tin, vì “người ta tin sao thì mình tin
thế!”. Tuy vậy, nếu đó là trường hợp một người suốt đời sống tại xóm làng của
mình thì không gặp khó khăn về đức tin. Đức tin sẽ bị lung lạc và chao đảo khi
họ rời xa môi trường họ sinh ra như đi bộ đội, công nhân hay học đại học… vì
tại những nơi này, họ phải tiếp cận với những bạn bè, những sách vở tài liệu
hoặc những trào lưu sống không phù hợp với tôn giáo. Đức tin của họ gặp nguy
hiểm. Đây là một trong những khó khăn lớn đối với các bạn trẻ công giáo Việt
Nam, trong thời kỳ đổi mới, cũng là thời kỳ phổ biến một hình thái xã hội mới
mà chúng ta gọi là “người di dân”.
Đức Thánh Cha đã viết: “Một điều quan trọng trong Năm Đức Tin
là duyệt lại lịch sử đức tin của chúng ta, trong đó có một mầu nhiệm khôn lường
giữa sự thánh thiện và tội lỗi. Lịch sử thánh thiện cho thấy sự đóng góp lớn
lao của những người nam nữ để làm tăng trưởng và phát triển cộng đoàn bằng
chứng tá cuộc sống của họ, còn lịch sử tội lỗi phải thúc giục mỗi người hoán
cải chân thành và trường kỳ để cảm nghiệm lòng từ bi của Chúa Cha Đấng đến gặp
tất cả mọi người” (Tự sắc, số 13).
“Duyệt lại đức tin” trước hết là học hỏi giáo lý. Vì kiến thức
“chắp vá” và rời rạc nên nhiều bạn trẻ dễ mất đức tin. Những bạn trẻ xa quê
thường rơi vào hai tình huống: một là mất hẳn đức tin; hai là mang một đức tin
biến dạng, tổng hợp pha lẫn mê tín dị đoan. Chính vì đức tin lung lạc, mà bạn
trẻ quan niệm lệch lạc về tính dục, về luân lý và về thực hành đức tin (đi lễ,
lãnh nhận các bí tích…). Một nguy cơ đối với Giáo Hội Việt Nam là quá chú ý đến
bề nổi mà quên đời sống nội tâm. Những công trình xây cất, những buổi lễ trọng
thể… có những lúc chỉ dừng lại ở bề ngoài, còn tâm hồn thì trống rỗng.
“Duyệt lại đức tin” còn là việc nhận ra vị trí của Chúa trong đời
mình. Câu hỏi mà Chúa Giê-su đặt ra cho các môn đệ: “Các anh bảo Thầy là ai?”
luôn mang tính hiện tại đối với các tín hữu. Khi nghiêm túc nhìn lại cách sống
đức tin của mình, bạn trẻ nhận ra Chúa luôn hiện diện trong cuộc sống. Sự hiện
diện của Chúa giúp cho bạn trẻ niềm vui và niềm hăng say phấn khởi phụng sự
Ngài. Khi cố gắng trả lời câu hỏi “Đức Giê-su là ai?’, người tín hữu cũng cần
xác định mình là ai trong mối tương quan với Chúa và với anh chị em, để nhờ đức
tin thấm đượm vào cuộc đời, họ được biến đổi nên giống Đấng mà họ tin theo.
Sau cùng, “Duyệt lại đức tin” còn là việc thể hiện đức tin trong
cuộc sống thường ngày. “Đức tin không có hành động là đức tin chết” (Gc
2,17). Hiện nay, khá phổ biến tình trạng bạn trẻ ngại dấn thân cho những việc
công ích xã hội. Lối sống ích kỷ, khép kín chính là vật cản trở việc bạn trẻ
sống đức tin. Vì thiếu tinh thần trách nhiệm đối với môi trường cuộc sống mà
những tệ nạn xã hội ngày càng gia tăng. Tiếc thay, trong số những thủ phạm gây
tội ác, thi thoảng cũng có những bạn trẻ là Ki-tô hữu.
2- Một Đức tin cần được tuyên xưng cách trọn vẹn
Có hai biến cố được coi như lý do để cử hành Năm Đức tin, đó là 50
năm khai mạc Công đồng chung Vaticanno II (1962) và 20 năm công bố Sách Giáo lý
của Giáo Hội công giáo (1992). Đây là những mốc lịch sử rất quan trọng, đánh
dấu sự hội nhập của tín hữu vào môi trường cuộc sống. Công đồng chung Vaticano
II đã mở ra một hướng đi mới cho Giáo Hội, giúp Giáo Hội có thể đối diện với
những thách đố cam go của cuộc sống hiện đại phát triển. Sách Giáo lý chung đưa
ra những nguyên tắc căn bản, nhằm duy trì tính duy nhất của đức tin, vừa tiếp
nối truyền thống từ thời các tông đồ, vừa mặc cho đức tin một nét mới mẻ.
Đức Thánh Cha đã viết: “Chúng ta mong muốn rằng Năm Đức Tin
khơi dậy nơi mỗi tín hữu khát vọng tuyên xưng đức tin trọn vẹn và với xác tín
được đổi mới, trong niềm tín thác và hy vọng. Năm này sẽ là một cơ hội thích
hợp để tăng cường việc cử hành đức tin trong phụng vụ, đặc biệt là trong Thánh
Thể, vốn là ‘tột đỉnh mà hoạt động của Giáo Hội hướng tới và đồng thời cũng là
nguồn mạch từ đó phát sinh toàn thể năng lực của Giáo Hội” (14). Đồng thời,
chúng ta mong muốn rằng cuộc sống chứng tá của các tín hữu tăng trưởng trong sự
đáng tín nhiệm. Tái khám phá nội dung đức tin được tuyên xưng, cử hành, sống và
cầu nguyện (15), và suy tư về chính hành động đức tin, đó là một sự quyết tâm
mà mỗi tín hữu phải biến thành của mình, nhất là trong Năm Đức Tin này” (số
9).
“Tuyên xưng cách trọn vẹn”
trước hết là tuyên xưng một cách ý thức nội dung đức tin được thể hiện trong
kinh Tin Kính. Ngay từ ban đầu, kinh Tin Kính đã là kinh nguyện hằng ngày của
các tín hữu. Kinh này là bản tóm lược những tín điều căn bản của Kitô giáo. Để
có thể tuyên xưng đức tin như Giáo Hội mong muốn, Đức Thánh Cha kêu gọi các tín
hữu hãy học các văn kiện của Công đồng và Sách Giáo lý, vì Sách Giáo lý là một “dụng
cụ đích thực nâng đỡ đức tin” (số 12). “Năm Đức Tin phải biểu lộ sự dấn
thân chung tái khám phá và học hỏi nội dung cơ bản của đức tin ở trong Sách
Giáo Lý này, trong đó có một tổng hợp có hệ thống” (số 11).
“Tuyên xưng cách trọn vẹn” còn
là việc học hỏi giáo huấn của Giáo Hội trong các lãnh vực khác nhau như luân lý
xã hội. Nhiều người hiểu khái niệm “giáo lý” chỉ thu hẹp ở “Kinh Tin kính”.
Quan niệm này rất nguy hiểm, tạo nên những tín hữu chỉ giữ đạo trong nhà thờ.
Họ hoàn toàn “vô cảm” với cuộc sống xã hội xung quanh. Nhiều người còn mất cảm
thức về tội, về lỗi công bằng. Cần lưu ý là nội dung cuốn Giáo lý gồm bốn phần:
1-Tuyên xưng Đức tin. 2-Lĩnh nhận các bí tích. 3-Thực hành đức tin. 4-Cầu
nguyện. Nhờ việc được huấn luyện để có một đức tin trọn vẹn, các tín hữu mới có
thể biết sống phù hợp với giáo huấn Tin Mừng. Đức tin chân thật thì đi liền với
đức mến, thể hiện qua tâm tình bác ái. “Năm Đức Tin cũng sẽ là cơ hội thuận
tiện để tăng cường chứng tá bác ái…” (số 14).
“Tuyên xưng cách trọn vẹn”, theo
ý Đức Thánh Cha như được trích dẫn trên đây, còn là việc năng tham dự Phụng vụ,
nhất là Thánh Thể, là nguồn mạch và đỉnh cao của cuộc sống Ki-tô hữu. Vì thiếu
hiểu biết, khá nhiều bạn trẻ không thực hiện bổn phận tham dự thánh lễ chúa
nhật. Họ không cảm thấy áy náy khi lên rước lễ khi thiếu điều kiện cần thiết.
Khá nhiều bạn trẻ nại đến lòng nhân lành của Chúa mà bỏ qua những thực hành đạo
đức. Đây là một điều cần lưu ý trong các hoạt động mục vụ giới trẻ. Hiện có
khuynh hướng biến mục vụ giới trẻ thành một “sân chơi” theo kiểu xã hội. Ngày
nay, với quan niệm lệch lạc về giáo lý, nhiều bạn trẻ cho rằng đã học giáo lý
thì không cần học kinh(!). Học giáo lý để biết Chúa. Đọc kinh để thân thưa tâm
sự cùng Chúa. Cả hai bổ túc cho nhau, làm thành một đức tin trọn vẹn. Nhờ việc
học thuộc lòng những kinh thường đọc, người tín hữu có thể cầu nguyện bất cứ
nơi đâu và bất cứ lúc nào.
3- Một Đức tin cần được tuyên xưng trong tình
hiệp thông với Giáo Hội
Người tín hữu trưởng thành tuyên xưng đức tin vào Chúa như một
“hành vi nhân linh”, tức là có sự hiểu biết và tự nguyện. Niềm tin của người
Ki-tô hữu vừa là “Tôi tin” vừa là “Chúng tôi tin”.
Đức Thánh Cha đã viết: “Chính việc tuyên xưng đức tin là một
hành vi bản thân và đồng thời cũng có tính chất cộng đoàn. Thực vậy, chính Giáo
Hội là chủ thể đầu tiên của đức tin. Trong đức tin của cộng đoàn Kitô, mỗi
người lãnh nhận bí tích Rửa tội, là dấu chỉ hữu hiệu về sự gia nhập cộng đoàn
các tín hữu để được ơn cứu độ. Như Sách Giáo Lý của Hội Thánh Công Giáo làm
chứng: “Tôi tin”; là đức tin của Giáo hội được mỗi tín hữu tuyên xưng cá nhân,
nhất là trong lúc chịu phép Rửa tội. “Chúng tôi tin” là đức tin của Giáo hội được
các Giám Mục họp nhau trong Công đồng, hoặc tổng quát hơn, được cộng đồng phụng
vụ các tín hữu tuyên xưng. “Tôi tin” cũng là Giáo Hội Mẹ chúng ta, đáp lại
Thiên Chúa bằng đức tin của mình và dạy chúng ta nói “Tôi tin”, “Chúng tôi tin”
(Số 10).
Tin trong Giáo Hội.
Vì Giáo Hội là chủ thể của Đức tin, nên người tín hữu cần xây dựng nền tảng Đức
tin trong Giáo Hội. Giáo Hội là người quản lý kho tàng đức tin, đồng thời nuôi
dưỡng tín hữu bằng kho tàng đó. Có thể tôi không thể hiểu thấu nội dung đức
tin, nhưng tôi tin trong Giáo Hội, với Giáo Hội và trong tình hiệp thông với
anh chị em đồng đạo của tôi. Khi tin trong Giáo Hội, tôi không sợ bị lầm lạc,
vì Giáo Hội là Mẹ luôn mong muốn cho con mình những điều tốt đẹp. Giáo Hội vừa
là chủ thể, vừa là đối tượng của đức tin, vì thế chúng ta tuyên xưng: “Tôi
tin Giáo Hội duy nhất, Thánh thiện, Công giáo và Tông truyền…”. Chính Đức
tin “vào Giáo Hội” này đem lại cho chúng ta niềm xác tín vào những gì Giáo Hội
thông truyền.
Tin trong tình yêu mến đối với anh chị em.
Lời tuyên xưng “Tôi tin” của tôi trở thành “chúng tôi” khi tôi hiệp thông với
mọi Ki-tô hữu trên toàn thế giới. Nhờ hiệp thông trong đức tin, tôi không còn
đơn lẻ trong hành trình đức tin, vì tôi có anh chị em cùng một đức tin với tôi,
đang cùng tôi đồng hành. Hiện tượng di dân của cuộc sống công nghiệp hiện nay
cho thấy có nhiều bạn trẻ, nếu thực hành đức tin, thì trở thành một người hoàn
toàn dửng dưng với cộng đoàn địa phương. Nhiều bạn trẻ đến học hành hoặc làm
việc ở thành phố, có thể vẫn đi lễ ngày chúa nhật, nhưng không tham gia những
sinh hoạt của giáo xứ. Họ giống như những người “đi lễ nhờ”, không tham gia hội
đoàn, không cộng tác để xây dựng Giáo xứ. Xem ra đức tin của họ là một đức tin
riêng rẽ, không được củng cố bằng tình liên đới. Một trong những quan niệm lệch
lạc hiện nay cho rằng “đức tin là việc riêng tư”, không ai có quyền can thiệp.
Chính do cách lập luận này mà cha mẹ không giáo dục con cái về đức tin. Đức
Thánh Cha đã nhấn mạnh: “Kitô hữu không bao giờ được nghĩ rằng đức tin là
một điều riêng tư. Đức tin là quyết định đứng về phía Chúa để sống với Ngài. Và
thành ngữ “ở với Chúa” giúp hiểu biết những lý do tại sao ta tin. Chính vì đức
tin là một hành vi tự do, nên cũng đòi hỏi một trách nhiệm xã hội về những gì
ta tin” (số 9).
Tin trong tình yêu mến đối với Giáo Hội.
Giáo Hội công giáo Việt Nam vừa tổ chức Năm Thánh 2010. Chúng ta đã có dịp học
hỏi về Giáo Hội với những góc nhìn khác nhau. Nhiều bạn trẻ đòi hỏi Giáo Hội
phải làm gì cho họ, nhưng họ lại chẳng làm gì cho Giáo Hội. Giáo Hội có mạnh mẽ
hay không là nhờ cách sống đức tin của các tín hữu. Người yêu Giáo Hội thì rất
nhiều, nhưng người chấp nhận chịu đau khổ vì Giáo Hội lại quá ít. Thật vậy,
tình yêu mến dành cho Giáo Hội được thể hiện qua việc chúng ta hy sinh cá nhân
mình vì lợi ích chung. Nếu các tín hữu thực sự yêu mến Giáo Hội, sẽ không còn
những tranh chấp, chia rẽ trong các cộng đoàn, vì mọi người đều vì Giáo Hội mà
chấp nhận những thiệt thòi cá nhân. Một hiện tượng phổ biến tại những quốc gia
có truyền thống lâu đời, là nhiều tín hữu nói tin vào Chúa, nhưng không tin vào
Giáo Hội. Họ đòi hỏi rất nhiều ở Giáo Hội nhưng không muốn cộng tác phần mình
xây dựng Giáo Hội. Họ hay chỉ trích phê phán Giáo Hội mà không hề làm gì để
Giáo Hội được tỏa rạng ánh sáng thần linh của Chúa cho môi trường xung quanh.
Một số bạn trẻ Việt Nam của chúng ta cũng bị ảnh hưởng do trào lưu này, nhất là
trong thời đại bùng nổ thông tin, nhiều người dễ bị lạc hướng hoặc có những
nhận định, những kết luận sai lầm.
Kết luận: Là người tín hữu, chúng ta được tháp nhập vào một lịch
sử của những nhân chứng đức tin. Đức Thánh Cha đã trích dẫn những mẫu gương
sáng ngời về đức tin như Đức Trinh nữ Maria, các Tông đồ, các vị Tử đạo trải
dài suốt lịch sử Giáo Hội. Và chính chúng ta, “Nhờ đức tin cả chúng ta cũng
đang sống: để nhìn nhận Chúa Giêsu hiện diện trong cuộc sống chúng ta và trong
lịch sử” (số 13).
Năm Đức tin sẽ được khai mạc vào tháng 10 sắp tới. Là những người
đặc trách Mục vụ Giới trẻ và bản thân các bạn trẻ, chúng ta phải làm gì để “cho
niềm tin tươi sáng” nơi cuộc đời chúng ta? Đó cũng là chủ đề của Hội nghị
này. Xin cám ơn Quý Cha và Quý Vị.
Gm Giuse Vũ Văn Thiên
Nguồn: WHĐ
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét