Người đăng: DangTrinh | 22.07.2012
2- Phương diện luật pháp
và ngoại giao
Dưới phương diện luật pháp và ngoại giao, trong
lãnh vực Giáo Hội Tòan cầu, tác động chính của Giáo Hội là hoạt động ngoại
giao của Tòa Thánh.
Một bên là các mối liên hệ song phương, trong đó
yếu tố nhân quyền luôn luôn chiếm phần quan trọng hơn. Ví dụ như thoả ước giữa
Tòa Thánh và Israel (được ký kết ở Giêrusalem ngày 30 tháng 12 năm 1993), cũng
như giữa Tòa Thánh và Tổ Chức Giải Phóng Palestine (được ký kết tại Vatican,
ngày 15 tháng 2 năm 2000).
Các Thoả Ước vừa kể đòi buộc các bên liên hệ ký
kết phải tôn trọng phẩm giá con người, các quyền của con người cách chung và
quyền tự do tôn giáo nói riêng. Các bài diễn văn của ĐTC nhân dịp nhận ủy
nhiệm thư các vị đại sứ mới bên cạnh Tòa Thánh gần như luôn luôn chứa đựng các
yếu tố liên hệ đến nhân quyền. Ngoài ra Tòa Thánh cũng dùng các đường dây đặc
biệt để bênh vực các nạn nhân bị vi phạm nhân quyền. Hoạt động của Tòa Thánh
trong các mối liên hệ đa phương giữa các chính quyền với nhau, rất năng
động trong ba mươi năm cuối cùng này, hầu hết là những hoạt động dành cho nhân
quyền. Tòa Thánh theo dõi đều đặn việc làm của Liên Hiệp Quốc trong lãnh
vực đang bàn, cũng như việc làm của các tổ chức vùng (Hội Đồng Âu Châu, Hội
Đồng Các Quốc Gia Mỹ Châu, Hội Đồng Các Quốc Gia Phi Châu Liên Kết), góp
phần cộng tác của mình dưới nhiều hình thức khác nhau vào các cuộc thảo luận.
Chúng ta cần lưu ý đến việc tham dự của Tòa
Thánh vào các Đại Hội Thế Giới trong những thập niên sau cùng này, khởi đầu từ
Đại Hội được tổ chức ở Vienne năm 1993, với chủ đề chính về nhân quyền.
Đặc biệt Tòa Thánh không khiếm diện để hỗ trợ
cho việc thiết lập Tòa Án Hình Sự Quốc Tế (cfr. Al VI Congresso internazionale
di diritto penale), được kết thúc bằng việc áp dụng Nội Quy một Tòa Án Hình
Sự Quốc Tế cho Đại Hội Ngoại Giao Liên Hiệp Quốc, được tổ chức ở Roma năm 1998
(cfr. Al Angelus, 14.06.1998; Al Congresso Mondiale sulla pastorale dei
diritti umani, 5; I credenti uniti nella costruzione della pace, 7).
Trong bối cảnh đó, Tòa Thánh luôn luôn kiên trì
ủng hộ các cố gắng của Cộng Đồng Quốc Tế nhằm phát huy và bênh vực một cách hữu
hiệu phẩm giá và các quyền của con người. Nhưng những cố gắng cộng tác và ủng
hộ đó không làm cho Giáo Hội đôi khi có thái độ dè dặt, trong trường hợp dưới
áp lực của một vài khuynh hướng ý thức hệ có kỳ vọng nhìn nhận một vài “quyền
của con người”, như quyền phá thai chẳng hạn, bởi vì theo họ, đó là một
quyền có ảnh hưởng đến khuynh hướng tính dục của con người. Đối với Giáo Hội kỳ
vọng vừa kể làm băng hoại đến quyền tiên khởi của con người, quyền mỗi con
người được bảo toàn mạng sống, từ lúc tượng thai trong lòng mẹ cho đến cái
chết tự nhiên.
Sau cùng về phương diện chặt chẽ pháp luật,
chúng ta đừng quên Giáo Hội gia nhập vào các dụng cụ pháp luật thiết thực để
bảo vệ nhân quyền của Hiệp Ước Genèvre 1949, cũng như vào Nghị Ước (Convention)
về tình trạng của người tỵ nạn (1951) và tu chính án (1967), vào Nghị Ước Ajax
về việc bảo vệ kho tàng văn hoá trong trường họp có tranh chấp, chiến tranh
(1954), vào Nghị Ước chống lại các loại “mìn” chống người (1997), vào
Nghị Ước chống lại việc đối đải phân biệt chủng tộc ( 1965).
Tòa Thánh đã trở thành thành viên của các nghị
hội quyết định trên, đó cũng là ý nghĩa nói lên sứ mạng của Giáo Hội là phục vụ
cộng đồng quốc tế nhân loại.
3- Phương diện mục vụ
Với phương diện mục vụ, chúng ta đi vào cuộc
sống hằng ngày của Giáo Hội, trên mọi đẳng cấp. Các quyền của con người tạo
thành một chương huấn dụ xã hội lớn lao của Giáo Hội. Thăng tiến và bảo vệ các
quyền của con người đòi buộc phải có một nền đào tạo tương xứng đối với các giá
trị thiết định nền tảng cho các quyền đó.
Để đạt được mục đích vừa kể, thăng tiến và
bảo vệ nhân quyền, các cấu trúc thích ứng nhằm mục đích của Giáo Hội chiếm
một vai trò thật quan trọng, nhất là đặc tính năng động của các Giáo Hội địa
phương đối với các vấn đề sở tại liên hệ cần giải quyết, dĩ nhiên cùng chung
sức với cả Giáo Hội hoàn vũ.
Năm 1998, nhân dịp 50 năm tuyên bố Bản Tuyên
Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền (được Hội Đồng Liên Hiệp Quốc chấp nhận năm 1948), Thánh
Bộ Công Lý và Hoà Bình (được ĐTC Phaolô VI thiết lập năm 1967), để đáp lại
lời kêu gọi của Công Đồng Vatican II (Gaudium et spes, 90), đã quy tụ một Đại
Hội Thế Giới Mục Vụ về các quyền của con người, với mục đích xác nhận sự
liên hệ giữa sứ mạng rao giảng Phúc Âm của Giáo Hội với việc thăng tiến và bảo
vệ các quyền của con người, trong mọi trạng thái của cuộc sống. Đại Hội đã cho
thấy công cuộc chuyên cần dấn thân của Giáo Hội đối với vấn đề, với những kết
quả đáng khích lệ, mặc dầu còn có nhiều thiếu sót đáng tiếc.
Dựa trên những phân tích vừa kể của Đại Hội,
cũng như dưới ánh sáng của năm 2000 đang tới lúc đó, dĩ nhiên Giáo Hội có những
động tác xét mình, nhưng đồng thời cũng cho thấy thái độ yêu thương của Giáo
Hội đối với con người. Điều đó đã được ĐTC Gioan Phaolô II nói lên trong Thông
Điệp Tertio millenio adveniens, 33-36).
Con đường Giáo Hội còn phải bước đi đã được Công
Đồng Vatican II vạch ra trước đó: “Luôn luôn và bất cứ ở đâu, và với quyền
tự do đích thực, Giáo Hội có quyền loan giảng đức tin và giảng dạy huấn dụ xã
hội của mình, hành xử khỏi bị chướng ngại sứ mạng của mình giữa các con người
và có quyền đưa ra phán đoán luân lý của mình, cả những gì thuộc về lãnh vực
chính trị, khi điều đó được các quyền căn bản của con người và sự cứu rỗi các
linh hồn đòi hỏi” (Gaudium et spes, 76).
Nói tóm gọn, về phương diện mục vụ, phận vụ của
Giáo Hội là một phận vụ song đôi: tức là “loan bao” và “tố cáo”,
đó là những gì đã được Thánh Bộ Công Lý và Hoà Bình dặn dò, được công bố trong
văn bản năm 1975, dưới tựa đề La Chiesa e diritti dell’uomo (Giáo Hội và các
quyền của con người, 70-90).
Giáo Hội đã nhận được sứ mạng rao giảng sứ điệp
cứu rỗi, tình yêu và hy vọng cho tất cả mọi người và trong mọi hoàn cảnh. Sứ
mạng đó cũng phải được thể hiện ngay cả trong những nghịch cảnh đang vây quanh,
bởi vì chính Giáo Hội có khả năng định hướng và nâng đỡ con người trong
cuộc hành trình của họ hướng về cùng đích thực hiện Nước Thiên Chúa, trong tinh
thần mong đợi thời cánh chung, chía khóa để hiểu được thái độ dấn thân chuyên
cần của người Kitô hữu và phục vụ con người.
- Giúp đỡ các nạn nhân với tất cả những
phương tiện mình có được,
- Chia sẻ các nỗi đau khổ bằng sự hiện diện liên đới,
- Đẩy lui những cơn cám dỗ khiến con người tuyệt vọng phải dùng vũ lực.
- Chia sẻ các nỗi đau khổ bằng sự hiện diện liên đới,
- Đẩy lui những cơn cám dỗ khiến con người tuyệt vọng phải dùng vũ lực.
Đó là những khó khăn của Giáo Hội trong lãnh vực
các quyền của con người, trong việc cộng tác cả với những tôn giáo khác và
những người thành tâm thiện chí, theo lời huấn dạy của Công đồng Vatican II.
Trên một bình diện khác, Giáo Hội không bao giờ
mệt mỏi gợi ý, hướng dẫn các chuyển hoá cấu trúc có khả năng tác động trên
những nguyên cớ sâu đậm về việc vi phạm các quyền của con người.
Giáo Hội cống hiến cho người tín hữu Chúa Kitô
có trách nhiệm trong lãnh vực chính trị những trợ lực có liên quan đến huấn dụ
xã hội, để nhờ đó sự chuyên cần dấn thân chính trị của họ được nuôi dưỡng.
Mặc cho đôi khi chúng ta có cảm tưởng mệt mỏi về
các hoạt động nhằm đem lại lợi ích cho nhân quyền, tuy nhiên cần nhận biết như
ĐTC Gioan Phaolô II rằng động tác chyên cần dấn thân cho nhân quyền đó là
phương diện thiết yếu trong sứ mạng mục vụ của Giáo Hội.
TS. Nguyễn Học Tập
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét