Lời Chúa: Xh 24,3-8; Dt 9,11-15; Mc
14,12-16.22-26
1.
Dâng tiến lễ vật
2.
“Này là Máu Ta” – ĐTGM. Ngô Quang Kiệt
3. Kết
hiệp với Đức Kitô và với nhau
4. Mầu
nhiệm tình yêu
5.
Đây là đất thánh - Arthur Tone
6.
Đây là Mình Thầy, đây là Máu Thầy - Noel Quesson
7. Tặng
phẩm thần linh
8. Vì
muôn người
9. Tấm
bánh tình yêu – ĐTGM. Ngô Quang Kiệt
10. Cậu
bé Marcellino
11.
Tình yêu và sự sống
12.
Thánh Thể
13. Bữa
tiệc
14. Dấu
chỉ của tình yêu
15.
Tình Chúa
16.
Tình Chúa
17. Kể
lại câu chuyện
18.
Chia sẻ
19.
Chuẩn bị ăn lễ Vượt Qua – JKN
1. Dâng tiến lễ vật
Có một mẩu chuyện kể lại rằng: Trước khi từ giã mái
nhà Nagiarét để lên đường rao giảng Phúc Âm, Chúa Giêsu đã hỏi Đức Mẹ: Thưa Mẹ,
Mẹ muốn con để lại gì cho Mẹ sau những năm Mẹ đã giúp đỡ và an ủi con? Đức Mẹ
đã trả lời: Mẹ chỉ mong được đứng cạnh con dưới chân thánh giá vào ngày thứ sáu
hầu kết hiệp với hy lễ của con.
Đúng thế, kết hiệp với
hy lễ của Đức Kitô cũng chính là điểm cao đẹp nhất mà người tín hữu chúng ta phải
thực hiện. Để hiểu được điều đó, chúng ta hãy
nhìn lên bàn thờ và chúng ta sẽ thấy những gì? Trước hết vị linh mục thượng
phẩm chính là Chúa Giêsu. Sau khi thiết lập và cử hành thánh lễ đầu tiên vào
chiều thứ năm tuần thánh, Ngài còn tiếp tục hiện diện và cử hành trong mỗi
thánh lễ. Bởi vì nếu không có Chúa Giêsu thì cũng chẳng có thánh lễ. Và như
sách giáo lý đã dạy, qua bàn tay linh mục chính Chúa Giêsu cử hành thánh lễ và
dâng lên Chúa Cha của lễ tinh tuyền, bởi vì Đức Chúa Giêsu là linh mục đời đời
theo dòng Melchisédech.
Bên cạnh Chúa Giêsu là vị
linh mục, đã lãnh nhận bí tích Truyền Chức Thánh. Nhờ ngài mà bánh rượu sẽ trở
nên Mình và Máu Thánh Đức Kitô. Nhờ ngài mà thánh lễ được cử hành ở khắp mọi
nơi trên mặt đất này. Như chúng ta đã thấy trong bữa tiệc ly, Chúa Giêsu đã
truyền chức linh mục cho các môn đệ, rồi trong dòng thời gian, các môn đệ lại
truyền chức cho những người khác, như vậy quyền dâng tiến hy lễ và truyền phép
được chuyển thông cho đến tận cùng thời gian. Vị linh mục rao giảng Lời Chúa,
tha thứ tội lỗi và nhất là cử hành thánh lễ.
Thế nhưng, trong thánh lễ
chúng ta không chỉ dừng lại ở đó để rồi có một thái độ thụ động, mơ mộng hay ngủ
gục. Chúng ta không xem lễ như xem một vở kịch, một cuốn phim, nhưng chúng ta
thực sự tham dự bằng cách kết hiệp tâm tình với những lời vị linh mục đọc và những
việc vị linh mục làm. Và dưới một góc độ nào đó thì trong thánh lễ chúng ta
cũng là những người cử hành, những người dâng tiến.
Để chuẩn bị cho con mình
trong thánh lễ mở tay, có một bà mẹ đã cẩn thật trồng một đám lúa mì. Sau khi
đã thu hoạch, bà xay thành bột rồi làm thành những chiếc bánh. Và trong ngày
con bà cử hành thánh lễ đầu tiên, thì chính bà đã đem những tấm bánh ấy đến nhà
thờ để dâng tiến.
Hơn thế nữa, trong ngày
chịu phép rửa tội, chúng ta cũng đã được xức dầu để thánh hiến cho Thiên Chúa
và như thế chúng ta cũng được tham dự vào chức vụ linh mục của Chúa Giêsu, và
chúng ta gọi đó là chức linh mục cộng đồng của mọi người tín hữu, khác với chức
linh mục thừa tác của những người được tuyển chọn qua bí tích Truyền Chức
Thánh. Bởi đó trong thánh lễ chúng ta cũng thi hành chức vụ linh mục, chúng ta
cộng tác với Chúa Giêsu, chúng ta góp phần bằng của lễ cuộc đời chúng ta, đó là
những lao công vất vả và những hy sinh gian khổ chúng ta gặp phải. Chúng ta đừng
bao giờ nghĩ rằng: cử hành thánh lễ là việc của Chúa Giêsu và các linh mục chứ
không phải là việc của tôi. Bởi đó tôi có thể nghĩ đến những chuyện khác trong
khi tham dự thánh lễ. Có ý thức vai trò của mình, chúng ta mới tham dự thánh lễ
một cách sống động và việc tham dự sống động này mới thực sự đem lại lợi ích
cho chúng ta.
2. “Này là Máu Ta” – ĐTGM. Ngô Quang Kiệt
Máu cần thiết cho sự sống.
Thiếu máu nhiều bệnh nhân sẽ khó sống. Hiến máu đã cứu được nhiều người thoát
chết. Hiến máu là tặng ban sự sống. Đó là hình ảnh cuộc hiến mình của Đức Kitô
trên thập giá. Trong bữa tiệc ly, Đức Kitô cho biết Người sẽ đổ máu ra để cứu
thế giới khi Người cầm chén rượu và nói: “Tất cả các con hãy cầm lấy mà uống.
Này là chén Máu Thầy, Máu giao ước mới, sẽ đổ ra cho các con và mọi người được
tha tội”. Máu để cứu sống, máu để thiết lập giao ước, máu để tha tội, tất cả những
ý nghĩa này đã được tiên báo trong Cựu ước.
Máu để cứu sống được diễn
tả bằng hình ảnh con Chiên Vượt Qua. Để cứu dân Do Thái ra khỏi ách nô lệ Ai Cập,
Chúa truyền cho người Do Thái giết một con chiên còn trong sạch, lấy máu bôi
lên cửa. Đêm hôm ấy, thiên thần Chúa đến trừng phạt người Ai Cập, nhà nào có
máu chiên bôi trên cửa sẽ được cứu thoát. Để tưởng niệm việc được cứu sống và
được giải thoát khỏi ách nô lệ Ai Cập, từ đó, hằng năm vào đúng ngày ấy, người
Do Thái vẫn giữ tập tục giết chiên mừng lễ. Lễ đó gọi là lễ Vượt Qua. Con chiên
bị giết gọi là con chiên Vượt qua. Khi hiến mình đúng vào dịp lễ Vượt Qua, Đức
Giêsu trở thành Chiên Vượt Qua mới. Máu Người đổ ra cứu linh hồn ta khỏi nô lệ
tội lỗi và khỏi chết. Các thánh Giáo phụ cắt nghĩa rằng: Miệng ta là cửa linh hồn.
Người rước Mình Máu Thánh Chúa vào miệng cũng như bôi máu chiên lên cửa nhà, sẽ
được cứu sống và được giải thoát khỏi nô lệ tội lỗi.
Máu giao ước được diễn tả
qua nghi lễ ông Môsê cử hành dưới chân núi Sinai. Bài đọc thứ nhất hôm nay thuật
lại: “Ông Môsê sai các thanh niên trong dân Israel tiến dâng những lễ toàn
thiêu, và ngả bò tơ làm lễ hiệp thông tế Chúa. Ông lấy một nửa phần máu, đổ vào
những cái chậu, còn nửa kia thì rảy lên bàn thờ. Ông lấy cuốn sách giao ước đọc
cho dân nghe. Họ thưa: Tất cả những gì Chúa đã phán, chúng tôi sẽ thi hành và sẽ
tuân theo. Bấy giờ, ông Môsê lấy máu rảy trên dân và nói: Đây là máu giao ước
Chúa đã lập với anh em”. Đó là giao ước cũ hay là Cựu ước.
Tại Việt Nam cũng như tại
các nước Á Đông có tục “uống máu ăn thề”. Khi muốn giao kết với nhau, mỗi người
lấy một chút máu của mình hòa chung vào một chén rượu. Sau đó mọi người chia
nhau cạn chén. Việc uống máu ăn thề nói lên sự đồng tâm nhất trí. Những người
cùng uống chung chén rượu pha máu trở nên ruột thịt với nhau, cùng sống cùng chết
với nhau. Đức Giêsu đổ máu ra để lập một giao ước mới giữa loài người với Thiên
Chúa. Máu Đức Giêsu giao hòa con người với Thiên Chúa và con người với nhau.
Máu giao ước đó làm cho con người trở thành con cái ruột thịt của Thiên Chúa và
trở nên anh em ruột thịt với nhau. Đó là máu giao ước.
Máu để tha tội được dùng
nhiều trong Cựu ước. Khi dâng lễ đền tội, người ta cũng xả thịt một con vật
dâng cho Thiên Chúa. Thày cả lấy máu con vật vảy lên tội nhân để ban ơn tha tội.
Khi ta rước Mình Máu Thánh Chúa, ta cũng được tha tội vì Máu Chúa không vảy lên
thân xác, nhưng vảy vào linh hồn ta.
Những ý nghĩa mà máu súc
vật trong Cựu ước tượng trưng nay được hoàn thành viên mãn trong Máu Đức Kitô.
Nhân loại đang rên xiết
trong ách nô lệ đã được Người giải thoát. Nhân loại đang xa lìa Thiên Chúa và bất
hòa với nhau đã được Người giao hòa thành một gia đình thương yêu thuận hòa, sống
chết có nhau. Nhân loại đang sống trong tội lỗi được Máu Người tẩy sạch mọi vết
nhơ.
Chúng ta được ân phúc dường
ấy là nhờ Người đã tự hiến mạng sống vì ta. Dòng Máu Người đổ ra đến đâu đem lại
sự sống đến đấy. Dòng Máu Người lan tới đâu thì ban ơn tha tội đến đấy.
Mừng lễ Mình Máu Thánh
Chúa, ta hãy cảm tạ tình yêu vô biên của Người đã hiến mình, đổ máu để cứu chuộc
ta.
Mừng lễ Mình Máu Thánh
Chúa, ta hãy đáp lại tình yêu của Người bằng cách siêng năng đến lãnh nhận và
siêng năng đến thờ lạy Đức Giêsu ngự trong phép Thánh Thể.
Mừng lễ Mình Máu Thánh
Chúa, ta hãy noi gương Người, biết quên mình, hiến thân phục vụ đồng loại.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1) Bạn có tham dự Thánh
lễ và chịu lễ sốt sắng không?
2) Mỗi khi chịu lễ, bạn
có cảm nghiệm được Đức Giêsu ngự trong bạn không?
3) Yêu mến Chúa trong
phép Thánh Thể, bạn có muốn nên giống Người, biết hiến thân phục vụ đồng loại
không?
4) Trong Kinh Thánh, máu
có những ý nghĩa nào?
3. Kết hiệp với Đức Kitô và với nhau
(Trích trong ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’ - Achille Degeest)
Chúng ta biết rằng niềm
tin vào Thánh Thể đã khai mào cho nhiều cách hiểu khác nhau về sự hiện diện của
Đức Kitô trong bánh và rượu. Các cách hiểu khác nhau này đôi khi đã là nguồn
chia rẽ giữa các Giáo Hội. Đó đây, chúng còn là một trong nhiều cản trở mà hướng
đại kết phải cố gắng vượt qua. Người ta sẽ thích đọc đoạn văn dưới đây, tuy
không có tính cách chính thức, nhưng đã đánh dấu một giai đoạn quan trọng trong
bước hiệp nhất giữa Giáo Hội Công giáo và Anh giáo. Đây là một trích đoạn trong
bản tuyên ngôn chung về học thuyết Thánh Thể ban ngày 7-9-1971 do uỷ ban quốc tế
Anh giáo-Công giáo- La mã.
Sau khi đã nói rằng:
“Chúng tôi ao uớc diễn tả trong tài liệu này sự đồng nhất mà chúng tôi đã đạt
được”, Uỷ ban nói tiếp:
“Việc hiệp thông với Đức
Kitô trong Thánh Thể giả thiết Ngài hiện diện thật sự, được biểu lộ dưới hình
thức bánh và rượu. Bánh và rượu này trở nên Mình và Máu Ngài trong mầu nhiệm
này. Nhưng sự hiện diện thật sự Mình và Máu Đức Kitô chỉ có thể hiểu được trong
bối cảnh công cuộc cứu độ, nhờ đó Ngài tự hiến bản thân Ngài, và cũng nhờ đó
Ngài ban cho những kẻ thuộc về Ngài, ơn giao hoà, bình an và sự sống. Một đàng
ơn huệ Thánh Thể xuất phát từ Mầu nhiệm Vượt Qua của Đức Kitô, nhờ đó ý định cứu
độ của Thiên Chúa đã được thực hiện cách dứt khoát. Đàng khác mục đích của
Thánh Thể là thông ban cho thân thể Ngài là Giáo Hội, sự sống của Đức Kitô chịu
đóng đinh và sống lại, đến nỗi các chi thể của Ngài luôn được kết hiệp với Đức
Kitô và với nhau một cách trọn vẹn hơn nữa.
Những lời của Đức Giêsu
nói trong bữa Tiệc ly: “Hãy cầm lấy mà ăn, này là Mình Ta” không cho phép ta
tách biệt ơn huệ sự hiện diện với tác động của bữa ăn bí tích. Các yếu tố không
hẳn chỉ là những dấu chỉ đơn thuần: Mình và Máu Đức Kitô hiện diện thực sự đấy
và cũng được thực sự trao ban là để khi lãnh nhận chúng, các tín hữu được liên
kết trong sự hiệp thông với Đức Kitô, Chúa chúng ta.
Theo quy luật phụng vụ cổ
truyền, lời nguyện truyền phép dẫn đến việc tín hữu rước lễ. Nhờ lời nguyện tạ
ơn này, 1 lời kinh tin tưởng dâng lên Chúa Cha, bánh và rượu nhờ tác động của
Chúa Thánh Thần mà trở nên Mình và Máu Đức Kitô, cho nên khi rước lễ, chúng ta
ăn thịt và uống máu Đức Kitô.
Vị Thiên Chúa đến gặp gỡ
dân Ngài nhờ quyền năng của Chúa Thánh Thần, chính là vị Chúa quang vinh. Trong
nghi lễ tạ ơn, chúng ta hưởng trước các niềm vui của thế giới sẽ đến. Nhờ tác động
biến đổi của Thần linh Thiên Chúa, bánh rượu của trần thế trở nên man-na bởi trời
và rượu mới, bữa tiệc cánh chung cho người mới. Các yếu tố của tạo thành thứ nhất
trở nên bảo chứng và của đầu mùa cho trời mới đất mới.
Từ đoạn văn khá cô đọng
về mặt đạo lý trên, ta hãy ghi nhớ các điều này:
- Mình và Máu Đức Kitô
thật sự hiện diện trong bánh và rượu Thánh Thể.
- Việc hiệp lễ Thánh Thể
nối kết lại với Đức Kitô và với nhau.
- Việc hiệp lễ Thánh Thể
ngay từ bây giờ đã hướng chúng ta vào một định mệnh: Định mệnh liên kết chúng
ta với Thiên Chúa. Việc kết hiệp này bắt đầu từ hôm nay sẽ đạt tới mức viên mãn
khi thời gian kết thúc.
4. Mầu nhiệm tình yêu
(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
“Lúc đó tôi biết thế nào tôi cũng chết, nhưng tôi muốn
con tôi được sống”. Đó là lời của bà Suzanna sau khi được cứu trong trận động đất
ở Armêni vào tháng 12/1987. Trong số hàng ngàn người bị vùi lấp dưới đống gạch,
có hai mẹ con bà Suzanna may mắn còn sống sót. Cô con gái bốn tuổi đòi uống nước.
Tìm đâu ra nước khi hai mẹ con không có lối ra? Tình mẫu tử đã gợi lên cho bà một
ý nghĩa táo bạo, đó là rạch ngón tay mình chảy máu để cho con mút. Đứa bé đã đỡ
khát nhờ máu người mẹ. Nó đã sống cho đến khi cả hai mẹ con được cứu.
Câu truyện trên giúp
chúng ta hiểu phần nào bí tích Thánh Thể. Chúa Giêsu đã chết để chúng ta được sống.
Ngài chấp nhận chịu đổ máu qua cái chết thập giá và Ngài lấy Thịt Máu Ngài làm
lương thực nuôi sống chúng ta.
Chính trong bối cảnh lễ
Vượt Qua của người Do Thái, Chúa Giêsu đã thiết lập bí tích Thánh Thể, bí tích
của Giao Ước mới: Chúa Giêsu cầm lấy bánh, đọc lời chúc tụng, bẻ ra, trao cho
các môn đệ, đó là cử chỉ thuộc nghi thức bữa tiệc Vượt Qua (x.Xh 12,26-27).
Nhưng lời mời gọi: “Các con hãy cầm lấy mà ăn, này là Mình Thầy”, Chúa Giêsu đã
biến đổi ý nghĩa của cử chỉ thuộc lễ Vượt Qua cũ, và làm cho nó trở thành cử chỉ
của riêng Ngài. Cả lời Chúa phán trên chén rượu cũng vậy: “Này là chén Máu Thầy,
Máu Giao Ước mới sẽ đổ ra cho nhiều người được tha tội”. Lời này đã gợi lại
Giao Ước Sinai, nhưng ở đây giao ước không còn được niêm ấn bởi máu chiên bò,
mà là máu của chính Con Một Thiên Chúa, máu có hiệu lực thanh tẩy tội lỗi (Bđ.
2)
Hơn nữa, nếu trong lễ Vượt
Qua, người ta cùng ăn thịt con chiên chịu sát tế, thì cử chỉ Chúa Giêsu bẻ
bánh, trao cho, ám chỉ thân xác Chúa bị xâu xé, hiến cho người khác, và lời
nói: “Máu Giao Ước mới sẽ đổ ra cho nhiều người…” lại càng làm nổi bật ý nghĩa
hy tế của lễ Vượt Qua mới, tức là Bàn Tiệc Thánh Thể. Nói cách khác, dưới hình
thức bánh rượu, Chúa Giêsu đã thể hiện trước, đã cảm nếm trước cuộc vượt qua của
chính Ngài, tức là cuộc khổ nạn và Phục Sinh sẽ xảy ra hôm sau. Ngài biến cái
chết thành hy lễ cứu độ đem là sự sống, thành quà tặng và lương thực siêu nhiên
cho tất cả những ai tin vào Ngài. Nhờ đó, các môn đệ Chúa Giêsu khi ăn bữa tiệc
này, đã được dự phần vào Giao Ước mới, được hiệp thông với Ngài trong biến cố
chết và sống lại, được cùng với Ngài đi từ cõi chết vào cõi sống muôn đời. Và
cũng từ đó, qua muôn thế hệ, mỗi lần cử hành Thánh Thể, một mặt Giáo Hội tái diễn
và hiện tại hoá cuộc hiến tế của Chúa Giêsu để nhớ đến Ngài; mặt khác, Giáo Hội
lại hướng về tương lai, hướng tới ngày Chúa đến trong vinh quang để đưa chúng
ta vào dự bàn tiệc Nước Trời, bàn tiệc viên mãn đã được khơi mào từ Bàn Tiệc
Thánh Thể hôm nay.
Theo lời Chúa truyền dạy:
“Hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy” (1Cr 11,24b), mỗi ngày và đặc biệt trong
ngày Chúa Nhật, Giáo Hội cử hành Thánh Thể để nhắc con cái mình nhớ đến tình
yêu của Đấng đã hiến mạng sống vì nhân loại, Đấng ấy vẫn đang hiện diện để trao
ban cho nhân loại bánh sự sống là chính Mình Máu Ngài. Vì thế, khi tham dự
Thánh Lễ, tôi không hiện diện như khán giả xem một vở kịch, cũng không phải chỉ
nhớ đến một kỷ niệm trong quá khứ không liên hệ gì đến cuộc sống thực tế, nhưng
là hiệp thông sự sống với Chúa Kitô, là chia sẻ hy tế thập giá của Ngài và cùng
với Ngài tôi hiến dâng thân mình làm lễ tế sống động đẹp lòng Thiên Chúa (x. Rm
12,1). Do đó, khi tham dự Thánh Lễ, tôi không lập đi lập lại những cử chỉ, những
động tác theo thói quen, nhưng tôi hiến dâng cho Chúa niềm vui nỗi buồn, những
lo âu và hy vọng, những tâm tư thao thức của tôi. Nói chung là tất cả những gì
đan dệt nên cuộc sông đời thường đều có thể trở thành hy lễ dâng lên Thiên
Chúa, những hy lễ như dấu chỉ tình yêu của tôi nhằm đáp trả Đấng đã yêu thương
đến nỗi hiến ban chính Con Một yêu dấu cho tôi.
Mặt khác, Thánh Thể
không chỉ tạo mối tương quan ân tình giữa Chúa và cá nhân tôi, nhưng còn mờ rộng,
bao trùm mọi người. Thật vậy, bí tích Thánh Thể đã được Chúa Giêsu thiết lập
trong bầu khí thân tình của một bữa ăn từ giã. Tấm bánh Chúa Giêsu đã cầm và
phân chia cho các môn đệ chính là bánh của bữa ăn hằng ngày nơi Ngài sống. Chén
rượu cũng vậy, và bánh ấy, rượu ấy, đã được biến đổi thành Mình Máu Ngài. Do đó
mầu nhiệm Thánh Thể còn là mầu nhiệm chia sẻ, chia sẻ để mọi người cùng ăn cùng
uống trong tình huynh đệ, và chính việc chia sẻ này đã được Chúa Giêsu dùng như
dấu chỉ các môn đệ làm để nhớ đến Ngài: Hai môn đệ đi Emmau đã nhân ra Đấng Phục
Sinh và chính lúc Ngài “cầm lấy bánh chúc tụng, đoạn bẻ ra trao cho hai ông…”
(Lc 24,30-31).
Ý thức chia sẻ đòi buộc
mỗi người chúng ta không được đóng khung nhưng buổi cử hành Thánh Thể bên trong
nhà thờ, nhưng phải sống mầu nhiệm Thánh Thể, mầu nhiẹm yêu thương ngay trong
cuộc đời mỗi ngày. Chúng ta cũng không thể cử hành Thánh Thể một cách trung thực,
nếu chúng ta sống dững dưng ích kỷ, bưng tai bịt mắt trước nhưng anh em đói
khát khốn cùng, đòi khát cơm bánh vật chất, nhất là đói khát công lý và tình
thương.
Giờ đây, chúng ta sắp
cùng nhau chia sẻ Bàn Tiệc Thánh Thể, chia sẻ Mình Máu Chúa Kitô, Đấng đã hiến
cả cuộc đời mình nên của lễ tình yêu. Xin Chúa giúp chúng ta, một khi đã hiệp
thông với Ngài, thì cũng biết thông hiệp với anh em bằng cuộc sống yêu thương
phục vụ, Có như thế, Bàn Tiệc Thánh Thể sẽ trở nên điểm hẹn diệu kỳ, nơi đây
chúng ta được nối kết với Chúa Kitô, thông chia cùng một sự sống với Ngài. Nơi
đây, chúng ta nối kết với mọi người anh em, để cùng nhau xây dựng một thế giới
công bằng, yêu thương, đang lúc chờ đợi Bàn Tiệc hạnh phúc vĩnh cửu trong vinh
quang Nước Trời.
5. Đây là đất thánh - Arthur Tone
Một linh mục Mỹ, cha Frank Ramsberger đi viếng đất
thánh. Cha muốn khảo cứu, đặc biệt những nơi Chúa Giêsu đã sống, đã làm việc,
đã chịu nạn, chết và sống lại từ cõi chết. Cha làm thân với một cậu trai tên
Yosef, người có bộ mặt nâu của một người chăn cừu Ả-rập. Cậu bé giúp lễ cho
cha, dạy cha một vài từ ngữ Ả-rập khó.
Khi vị linh mục sắp sửa từ biệt để đến một vùng khác của
đất thánh, ngài nói với Yosef: “Có ít con trai và con gái được đặc ân sống trên
mảnh đất Đức Giêsu đã sống. Con biết rằng Con Thiên Chúa đã sống như một cậu
con trai, một người đàn ông, đã đi đứng trên những con đường này và đã thở bầu
không khí này. Cái đó không giúp con yêu Người hơn sao?
Yosef trả lời một câu đầy ý nghĩa: “Cha chẳng cần phải
sống ở đây để yêu Chúa, vì bây giờ Chúa ở khắp nơi trên thế giới. Ngày nay mỗi
một nơi đều là đất thánh. Bất cứ nơi nào chúng ta ở, chúng ta ở trên đất của
Chúa Giêsu.
Có bao giờ bạn nghĩ như
vậy không? Pilsen (thay thế bằng tên họ đạo của cha) là một phần đất thánh. Đức
Giêsu ở ngay đây, ngay lúc này.
Đây là ý tưởng về ngày lễ
Mình Thánh Chúa. Thân thể Đức Kitô. Chúng ta nhắc lại thứ năm tuần thánh. Lúc đầu
tiên Người nói những lời này: “Đây là Mình Ta… đây là Máu Ta”. Hôm nay chúng ta
mừng lễ, về việc những lời trên được lặp lại trên khắp thế giới mỗi ngày, về việc
Đức Giêsu hiện diện trên mọi bàn thờ khắp thế giới. Đức Kitô ở nơi đây. Đây là
đất thánh Pilsen (tên họ đạo thành phố) là đất thánh.
Đây là Betlehem. Đức
Giêsu sinh ra tại đây trong mỗi Thánh Lễ. Đây là Nazareth. Đức Giêsu lớn lên ở
đây trong đời sống chúng ta. Chúa Giêsu làm phép lạ ở đây, phép lạ thiêng
liêng: Người chữa chúng ta khỏi phong cùi tội lỗi. Người chừa những người què
thiêng liêng để họ có thể bước đi trên đường lối của Người. Người mở mắt cho những
ai không thấy được những sự thiêng liêng. Đức Giêsu tha thứ tội lỗi tại nơi đây
trong tòa cáo giải.
Quan trọng nhất, ngôi
Thánh đường này là “Căn phòng rộng trên lầu” trong Tin Mừng hôm nay, ở đó Đức
Giêsu đã nói lời truyền phép đầu tiên. Không có nơi nào Thánh hơn nơi này.
Đây cũng là Cana, Đức
Giêsu tham dự đám cưới trong nhà thờ này. Người dự đám tang nơi quê hương Người.
Người ở ngay đây, khi chúng ta an táng một người thân yêu. Đây là Đền Thờ
Giêrusalem. Đức Giêsu giảng dạy ở đây qua vị linh mục của Người, qua các thầy
cô giáo lý, qua cha mẹ của các con em. Chúa Giêsu hiện diện trong làng, trong
nhà thờ, ngoài phố, ngoài cánh đồng, trên bờ hồ, trên đỉnh đồi, và ngôi nhà ở đất
thánh. Người cũng hiện diện trong nhà của chúng ta.
Hôm nay là ngày của Chúa
Cha, trên đất thánh Đức Kitô tôn kính Cha trên trời của Người. Trong phương
cách giới hạn của chúng ta, chúng ta hãy tôn kính Cha mình. Bạn hãy nói với cha
bạn như Đức Giêsu thường nói với Cha Người rằng: Bạn yêu Người, bạn quý mến những
gì Cha bạn làm cho bạn.
Vâng, bạn và tôi thực sự
đang sống trên đất thánh, vì Thiên Chúa làm người sống tại nơi đây ở giữa chúng
ta: Mình Thánh Chúa Kitô ở với chúng ta.
Xin Chúa chúc lành bạn.
6. Đây là Mình Thầy, đây là Máu Thầy - Noel Quesson
Năm 1263, một linh mục người Đức cử hành Thánh Lễ ở
nhà thờ kính Thánh Christiana. Lúc bẻ bánh, đột nhiên, linh mục thấy Mình Thánh
không còn là hình bánh, mà đã biến thành Thịt và Máu thực. Những giọt máu loang
ra thấm ướt tấm khăn Thánh trên bàn thờ. Linh mục vội gấp khăn lại, nhưng gấp tới
đâu, máu thấm ra tới đó, máu thấm qua 25 lần vải. Vị linh mục vừa cảm động vừa
sợ hãi đến mức không tiếp tục Thánh Lễ được.
Ngài tới yết kiến Đức Giáo Hoàng Urbanô và kể lại sự
kiện ấy. Đức Giáo Hoàng sai một Giám Mục đến rước Mình Thánh cùng tấm khăn đẫm
máu về Tòa Thánh đặt ở nhà thờ chánh tòa cho giáo dân thờ kính. Năm sau, (1264)
vào ngày mồng 8 tháng 9, Người ra sắc dụ lập lễ kính Thánh Thể trong toàn Giáo
Hội như chúng ta mừng kính hôm nay.
Đã có nhiều phép lạ về
Thánh Thể. Chắc Chúa Giêsu muốn củng cố niềm tin của chúng ta vào bí tích này,
cho chúng ta hiểu rõ ý định của Người khi lập phép Thánh Thể, đó thực là của
nuôi linh hồn chúng ta, cần thiết cho linh hồn cũng như đồ ăn cần cho thân xác.
Đó thực là Thịt và Máu của Chúa, dù mắt thường không nhận rõ thực tại này.
Trong Thánh Lễ, linh mục
làm những cử chỉ Chúa đã làm trong bữa Tiệc ly, cũng đọc những lời Chúa đã đọc:
“Các con làm việc này để nhớ đến Thầy”. Làm việc này là việc gì? Là cầm lấy
bánh, đọc lời chúc tụng bẻ ra và phân phát cho mọi người.
Bí tích Thánh Thể là
trung tâm đời sống Kitô hữu. Trước hết vì ở đây cử hành mầu nhiệm Cứu độ. Chúa
Giêsu đã chết để cứu chuộc nhân loại. Người chết vì yêu thương chúng ta. Ngoài
việc chết một lần trong lịch sử, Chúa còn dùng Thịt và Máu nuôi dưỡng ta, để biểu
lộ Tình yêu của Chúa, để ta thông hiệp với sự sống vô biên của Chúa, của một vị
Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta cho đến muôn đời. Những thực tại này được thể
hiện trong bí tích Thánh Thể, trong Thánh Lễ. Sống cuộc sống thế trần chúng ta
cốt đem sự sống tới cho loài người và bí tích Thánh Thể chính là suối nguồn sự
sống. Chúng ta cần năng tiếp xúc với nguồn sống đó, chúng ta mới có sự sống để
có thể chuyển thông sự sống ấy cho người khác.
Trong Thánh Lễ, chúng ta
được đón nhận Lời Chúa và tiếp nhận Mình Chúa vào tâm hồn. Lời Chúa đã thành cụ
thể đi vào tâm hồn ta khi ta tiếp nhận Mình Chúa. Chúa đã hiến mạng sống cho mọi
người và trao ban chính mình cho chúng ta như là bánh sự sống, vì lẽ đó, tiệc
Thánh Thể là nhiệm tích Mình và Máu Đức Kitô, nhiệm tích của sự hiện diện đích
thực của Đức Kitô. Chính Thánh Linh đã làm cho Đức Kitô thực sự có mặt và hiến
ban trong Bánh và Rượu (Conseil oecuménique năm 1974).
Tiệc Thánh Thể còn là cuộc
họp mặt của các tín hữu. Muốn được Ơn Chúa, chúng ta phải hiệp nhất với nhau.
Thánh Thể là dấu hiệu hiệp nhất rõ ràng và vững chắc: chỉ có một tấm bánh, một
chén rượu chia ra cho mọi người. Trong chúng ta đều lưu hành một của ăn và một
thức uống, đều có chung một nguồn sống. Từ Thánh Lễ đi ra, chúng ta ý thức mình
là một phần chi thể, là Thịt Máu Đức Kitô, chúng ta mang Đức Kitô trong mình.
Trong khi đó, người anh chị em bên cạnh ta cũng là phần chi thể Máu Thịt Đức
Kitô như ta. Còn gì gần gũi hơn và thân thiết hơn thế.
Lạy Chúa, nhờ bí tích
Thánh Thể, chúng con được hòa nhập vào sự sống Thánh thiện của Chúa. Nhờ hiến lễ
Tạ Ơn, chúng con cũng được tôn vinh Thiên Chúa; nhờ Tiệc Thánh, chúng con được
hiệp nhất với nhau trong Ngài. Chúng con xin cảm tạ Ngài.
7. Tặng phẩm thần linh
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)
Phúc Âm kể lại: Đang khi
ăn, Chúa Giêsu cầm lấy bánh, dâng lời tạ ơn, bẻ ra trao cho các môn đệ và nói: Này
là Mình Thầy, các con hãy cầm lấy mà ăn. Rồi Người cầm lấy chén rượu và nói:
Này là Máu Thầy, các con hãy cầm lấy mà uống. (Mt 26,26-29; Lc, 22,14-20). Chúa
đã lập Bí Tích Thánh Thể và Chúa dặn dò các môn đệ: Các con hãy làm việc này mà
nhớ đến Thầy. Tiệc Thánh Thể này được chính Chúa Giêsu tiên báo trong tiệc cưới
Cana, được hứa ban cho dân ở Caphanaum, được thiết lập trong Tiệc Ly và đã được
chính Chúa cử hành đầu tiên tại làng quê Emmau. Bốn khung cảnh này hòa quyện đan
kết với nhau thật tuyệt đẹp trong ngày lễ Mình Máu Thánh Chúa Kitô.
Thánh Thể là sự sống của Giáo Hội, là lương thựcthiêng liêng cho đời sống và là bảo đảm cho hạnh phúctrường
cửu của người tín hữu chúng ta.
Thánh Thể là mối hiệp nhất giữa Thiên Chúa với con
người, và giữa con người với nhau.
Thánh Thể chính là Tặng Phẩm Thần Linh mà Thiên Chúa trao
cho nhân loại.
Lịch sử cứu độ là lịch sử
hồng ân và là lịch sử tình yêu tự hiến của Thiên Chúa. Cao điểm của lịch sử này
là Thập Giá Đức Kitô.Thập Giá là tột đỉnh hy sinh của Thiên Chúa. Thập Giá biểu
lộ tình yêu điên rồ của Thiên Chúa. Thập Giá cũng là tột đỉnh hy sinh của Đức
Kitô, Đấng đã hạ mình vâng phục Chúa Cha cho đến chết và chết trên Thập Giá. Thập
giá là cao điểm tình yêu tự hiến của Chúa Kitô.
Tình yêu sâu thẳm và
khôn dò của Thiên Chúa biểu lộ nơi Thập Giá Đức Kitô là tình yêu vượt thời
gian. Tình yêu tự hiến của Đức Kitô biểu lộ bằng cái chết cũng vượt thời gian.
Chúa Kitô chỉ tự hiến một lần, tự hiến trọn vẹn thay cho mọi lần.Chúa đã biểu lộ
điều này trong bữa Tiệc Ly. Từ đó, Bí Tích Thánh Thể là nguồn mạch của đời sống
Giáo Hội, là trọng tâm và là tột đỉnh của sinh hoạt Giáo Hội. Thánh Thể làm nên
Giáo Hội.Không có Thánh Thể thì không có Giáo Hội. Giáo hội là thân mình gồm
nhiều người ăn cùng một bánh là thân mình Đức Kitô (1Cor 10,17).
Giáo hội luôn định tín rằng:
dù chỉ một miếng bánh nhỏ, khi đã được Truyền Phép, vẫn chứa đựng cả thân xác,
linh hồn và thần tính của Đức Kitô.Chúng ta có Đức Kitô nguyên vẹn và cụ thể.
Chính Chúa Thánh Thần Kitô- hóa bánh rượu, làm cho bánh rượu trở nên Mình và
Máu Chúa Kitô. Khi Linh mục, thừa tác viên của Giáo hội, thay mặt Chúa Kitô đọc
Lời Truyền Phép. Lời Truyền Phép mà Linh mục đọc không phải là một câu thần chú
có một ma lực biến bánh và rượu thành Mình và Máu Chúa Kitô, giống như Linh mục
có quyền trên Chúa Kitô, khiến Chúa đến thì Ngài phải đến. Lời Truyền Phép
chính là Lời Chúa Kitô, Lời mà Chúa Kitô muốn nói qua môi miệng của Linh mục. Chúa
Kitô đã chọn một số người để họ lập lại y nguyên Lời Truyền Phép của Ngài. Chính
Chúa Thánh Thần lấp đầy “khoảng cách” giữa Linh mục và Đức Kitô, khiến Lời Truyền
Phép trở nên “công hiệu”, làm cho nội dung của Lời trở thành hiện thực. Sau
Truyền Phép bánh không còn là bánh mà là Mình Thánh Chúa, rượu không còn là rượu
mà là Máu Thánh Chúa.Đã có một sự thay đổi, sự thay đổi ấy là thay đổi bản thể
hay “biến thể”. Đây là công việc của Chúa Thánh Thần, chứ không phải là công việc
của người phàm, dù người ấy là Linh mục. Vì ý thức điều đó, Giáo hội thiết tha
khẩn cầu trước lúc Linh mục Truyền Phép:
“Chúng con nài xin Cha đổ
ơn Thánh Thần xuống mà thánh hóa của lễ này, để biến thành Mình và Máu của Đức
Giêsu Kitô, Chúa chúng con” (Kinh Nguyện Thánh Thể II).
“Lạy Cha, chúng con tha
thiết nài xin Cha, cũng nhờ Chúa Thánh Thần, mà thánh hóa của lễ chúng con dâng
hiến Cha đây, để trở nên Mình và Máu Đức Giêsu Kitô, con Cha, Chúa chúng con” (Kinh
Nguyện Thánh Thể III).
“Lạy Cha, xin cho Chúa Thánh Thần đoái thương
thánh hóa những của lễ này, để biến thành Mình và Máu Đức Giêsu Kitô Chúa chúng
con” (Kinh Nguyện Thánh Thể IV).
Chúa Thánh Thần làm cho
Chúa Kitô hiện diện thực sự giữa chúng ta, trong hình bánh và rượu. Điều đó
không có nghĩa là Đức Kitô không hiện diện thực sự bằng những cách khác, như hiện
diện qua lời Kinh Thánh, hiện diện trong Giáo hội, hiện diện nơi những người
nghèo khổ, hiện diện giữa hai hoặc ba người họp nhau cầu nguyện (Mt 18, 20). Tất
cả những cách hiện diện đó đều là hiện diện thực. Có điều khác là: Đức Kitô
không đồng hóa với lời Kinh thánh, Lời Kinh thánh được đọc lên không là bản
thân Đức Kitô; Đức Kitô cũng không đồng hóa với người nghèo,vì người nghèo
không là bản thân Đức Kitô, dù Ngài đã nói: “Ta đói các ngươi cho ăn, Ta khát
các ngươi cho uống …” (Mt 25, 35-36). Trái lại nơi Bí Tích Thánh Thể, sau Lời
Truyền Phép, bánh và rượu là Đức Kitô, là bản thân Ngài, là bản thể Ngài, là
Mình và Máu Ngài.Trong Bí Tích Thánh Thể, sự hiện diện của Đức Kitô có một chiều
sâu hữu thể mà không nơi nào có. Sự hiện diện đích thực và đặc biệt này của Đức
Kitô là kết quả của một sự thay đổi mà tác động thay đổi chính là công việc của
Chúa Thánh Thần làm khi Linh mục đọc Lời Truyền Phép.
Bí Tích Thánh Thể là
sáng kiến của tình yêu. Tình yêu luôn có những sáng kiến bất ngờ và kỳ diệu.
Thiên Chúa đã yêu thế gian nổi ban chính Con Một … (Ga 3,16) và Con Một là Đức
Giêsu đã yêu cho đến cùng, đã lập Bí tích Thánh Thể để ở với con người luôn
mãi.
Bông lúa và trái nho là
những sản phẩm thông thường và cần thiết nhất mà ruộng đất cống hiến cho con
người. Bánh và rượu có thể tầm thường, nhưng laị là những gì gần gũi và cần thiết
nhất cho cuộc sống con người hàng ngày. Chúa Giêsu đã muốn trở nên những gì cần
thiết và gần gũi đó. Người muốn bánh và rượu trở nên thịt máu của Người. Từ
bông lúa bị nghiền nát, từ chùm nho bị ép, nghĩa là từ cuộc khổ nạn và cái chết
trên Thập Giá, Đức Giêsu đã trở thành tấm bánh, thành ly rượu đem lại sự sống đời
đời cho nhân loại. Vật chất đã trở thành biểu tượng cho sự hiện diện thần linh.
Mình và Máu Chúa Kitô là
hồng ân vô giá, chúng ta đón nhận để có sự sống thần linh của Chúa. Tham dự
Thánh Lễ tích cực, trọn vẹn là cách tốt nhất thể hiện lòng yêu mến Chúa. Thỉnh
thoảng trong ngày, trong tuần, chúng ta nên quỳ gối trước Thánh Thể, chúng ta
có thể học được nhiều điều từ Bí Tích Tình Yêu.
8. Vì muôn người
Suy Niệm
Đại lễ Vượt qua gần đến.
Chúa Giêsu ước ao ăn lễ Vượt qua lần cuối với các môn đệ trước khi chịu khổ
hình (Lc 22,15). Ngài đã tiên liệu nơi tổ chức bữa tiệc. Một căn phòng rộng rãi
trên lầu, đã chuẩn bị sẵn sàng. Các môn đệ chỉ phải lo những gì cần cho bữa ăn:
bánh không men, rượu, chiên và rau đắng. Thế nhưng chỉ mình Chúa Giêsu biết
Ngài sẽ làm gì trong bữa tiệc Vượt qua này.
Bữa tiệc cuối là thánh lễ
đầu tiên của Chúa. Vẫn bánh đó, vẫn rượu đó trên bàn tiệc. Nhưng đối với các
môn đệ, thật là bất ngờ. Khi Chúa Giêsu bẻ bánh, trao cho họ và nói: “Anh em
hãy cầm lấy, đây là Mình Thầy”. Ngài còn mời họ uống rượu và nói: “Đây là Máu
Thầy, Máu giao ước, đổ ra vì muôn người.”
Như thế bánh rượu đã được
biến đổi tận căn để trở thành Mình Máu Chúa. Ăn bánh và uống rượu trở nên hành
vi thông hiệp vào cái chết sắp đến của Thầy.
Ngay hôm sau, trên núi Sọ,
máu Chúa đã đổ, và tấm thân Chúa bị nát tan. Hy lễ núi Sọ chỉ diễn ra một lần,
nhưng ảnh hưởng trên cả dòng lịch sử.
Bữa tiệc ly chỉ diễn ra
một lần, nhưng Chúa muốn nó được lặp lại cho đến tận thế: “Hãy làm việc này mà
tưởng nhớ đến Thầy” (Lc 22,19).
Mỗi thánh lễ là một bữa
tiệc ly, vị linh mục lặp lại cử chỉ và lời nói của Chúa.
Mỗi thánh lễ là một tưởng
nhớ hy tế thập giá. Cái chết cứu độ năm xưa, nay trở thành hiện tại để đem đến
sự sống cho tín hữu thuộc mọi thời.
Rước lễ là gặp gỡ Đấng
hy sinh chịu chết, là kết hợp với Đấng đã yêu đến cùng.
Ta được mời gọi sống như
Đấng ta lãnh nhận, nghĩa là bẻ ra, chia sẻ, phục vụ và hiến trao.
Ta không thể tiếp tục sống
ích kỷ và khép kín, khi ngày ngày rước lấy Đấng đã chết vì muôn người.
Rước lễ không phải chỉ
là nhận Chúa vào miệng, mà là để Chúa chiếm lấy mọi ngõ tối của đời mình, nhờ
đó đời ta được hoàn toàn biến đổi.
Nhiều khi có một khoảng
cách quá xa giữa thánh lễ và đời thường của người Kitô hữu.
Thực sự gặp Chúa dưới
hình bánh rượu sẽ đưa ta gặp Chúa nơi những người nghèo khổ, vì họ cũng là sự
hiện diện thật sự của Chúa (x. Mt 25, 35).
Mặt khác, càng say mê phục
vụ con người, ta càng cảm thấy nhu cầu rước lấy Đấng phục vụ.
Khi dự lễ, bạn hãy đem
theo hy lễ đời mình để kết hiệp với Hy lễ của Chúa.
Gợi Ý Chia Sẻ
Nhiều bạn trẻ dự lễ ngày
Chúa Nhật chỉ vì sợ mắc tội. Họ chán xem lễ”. Theo ý bạn, những nguyên nhân nào
đưa đến thái độ này? Có cách nào giải quyết không?
Rước lễ có thể trở thành
một thói quen nhàm chán, vô nghĩa, nặng phần hình thức. Theo ý bạn, làm thế nào
để việc rước Chúa thực sự đem lại lợi ích cho chúng ta?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu, xin cho
con một tâm hồn theo hình ảnh Tấm Bánh Thánh:
Một tâm hồn trong trắng,
cố tránh cả những ô uế nhỏ mọn để luôn xứng đáng với Chúa.
Một tâm hồn khiêm hạ tìm
chiếm chỗ nhỏ bé, nhưng luôn luôn muốn bày tỏ một tình yêu lớn lao.
Một tâm hồn đơn sơ,
không biết đến những phức tạp của ích kỷ, và tìm hiến dâng mà không đòi lại.
Một tâm hồn lặng lẽ, hạnh
phúc khi thấy sự quảng đại của mình không được người khác biết đến.
Một tâm hồn nghèo khó,
chỉ làm giàu cho mình nhờ chiếm được chính Chúa.
Một tâm hồn luôn hướng về
tha nhân, quan tâm đến những nhu cầu và ước muốn của họ.
Một tâm hồn luôn kết hiệp
với Chúa, và múc lấy nguồn sống từ nơi Chúa.
9. Tấm bánh tình yêu – ĐTGM. Ngô Quang Kiệt
Mỗi khi chiêm ngắm Thánh
Thể Chúa, tôi không ngừng ngỡ ngàng trước tình yêu của Người. Tình yêu ấy vô
cùng cao cả nhưng lại rất đỗi đơn sơ. Đơn sơ như hình ảnh tấm bánh.
Tấm bánh, tình yêu gần gũi.
Sao Chúa không hoá thân
làm viên kim cương quý giá mà lại làm một tấm bánh? Tấm bánh bình thường, quen
thuộc quá. Từ khi kinh tế phát triển, bánh càng ngày càng xuống giá, bớt được
quý trọng.
Tuy bình thường, nhưng
bánh vẫn là lương thực cần thiết cho con người. Cũng như khí trời, như nước,
bánh đi vào sinh hoạt hằng ngày của con người. Bình thường lắm nhưng không có
không được.
Chúa trở thành tấm bánh
để gần gũi với loài người, để đi vào sinh hoạt đời thường của con người. Con
người có thể đến với Chúa dễ dàng, không e ngại, sợ sệt. Chỉ là một tấm bánh vừa
tầm tay mọi người. Chỉ là một tấm bánh sẵn sàng đáp ứng nhu cầu của con người.
Thật khiêm nhường mà đầy ý nhị. Thật đơn sơ nhưng cũng thật sâu xa vì tấm bánh
nói lên tình yêu tự hiến.
Tấm bánh, tình yêu tự hiến.
Bánh sẽ chẳng còn ý
nghĩa nếu chỉ để trưng bày cho người ta chiêm ngắm. Bánh chỉ có ý nghĩa khi được
sử dụng. Được sử dụng là bị bẻ ra, bị nghiền nát, bị tan biến, bị tiêu hoá. Vì
thế, trở thành tấm bánh là chấp nhận chịu đau đớn, chịu huỷ hoại. Đây không phải
là một chấp nhận bất đắc dĩ, vì tấm bánh bao giờ cũng mời mọc tiêu thụ.
Khi xưng mình là bánh bởi
trời, Chúa Giêsu bày tỏ một tình yêu tha thiết, sẵn sàng chịu nghiền nát, tan
biến, chịu chết cho nhân loại. Chúa chịu chết cho ta được sống. Chúa chịu huỷ
hoại cho ta được lành lặn các thương tích. Chúa bé nhỏ đi cho ta được lớn mạnh.
Tấm bánh bị tiêu hoá để
thực hiện một tình yêu hiệp thông.
Tấm bánh, tình yêu hiệp thông.
Chúa Giêsu tha thiết với
sự hiệp thông. Người không ngừng mời gọi con người đến sống thân mật với Người.
Người tự nhận mình là cây nho và mời gọi mọi người hãy trở thành cành nho gắn kết
với cây nho.
Hôm nay, Người còn chủ động
trở thành tấm bánh để hoà vào từng giòng máu, từng thớ thịt của con người trong
một kết hiệp sâu xa. Người tự tiêu huỷ mình để trở thành thịt máu của con người.
Không còn sự kết hợp nào sâu xa khăng khít hơn nữa.
Tấm bánh gợi lên một bàn
tiệc tại đó anh em quây quần trong tình thương, chia sẻ lương thực và chia sẻ
tâm tình. Không còn gì đẹp hơn. Chính Chúa Kitô tự hiến mình để quy tụ chúng
ta. Chính Chúa Kitô bị bẻ ra để cho tình huynh đệ nhân loại được mặn mà thắm
thiết.
Với những gợi ý như thế,
Chúa hướng dẫn tôi trong tình yêu mến, trong cử hành và trong cách sống Bí tích
Thánh Thể.
Yêu mến Bí tích Thánh Thể
là gì nếu không phải là trở nên hiền lành khiêm nhường, sống gần gũi với những
người nhỏ bé nghèo hèn?
Cử hành Bí tích Thánh Thể
là gì nếu không phải là chấp nhận hao mòn, quên mình, thiệt thòi vì Chúa và vì
anh em?
Sống Bí tích Thánh Thể
là gì nếu không phải là xây dựng tình đoàn kết, tình huynh đệ với những người sống
quanh ta, trong mọi môi trường cuộc sống?
Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể,
con cảm tạ tình yêu vô biên của Chúa. Con chúc tụng ngợi khen Chúa muôn đời.
Amen.
GỢI Ý CHIA SẺ
1) Khi dâng lễ, tấm bánh
có gợi lên cho bạn điều gì về tình yêu của Đức Giêsu không?
2) Khi bạn rước lễ, bạn
có cảm nghiệm được tình yêu của Chúa không?
3) Phép Thánh Thể thôi
thúc bạn làm gì?
10. Cậu bé Marcellino
(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Một cuốn phim mang tựa đề: “Cậu bé Marcellino” kể lại
câu chuyện sau đây:
Ở cổng nhà dòng nọ có cậu bé bị bỏ rơi, một thầy dòng
đã đem về nhà dòng nuôi. Với thời gian, cậu bé lớn lên, khôn ngoan và tinh nghịch.
Vốn tính nghịch ngợm, cậu bé bị cấm không được leo lên kho trên gác. Nhưng vì
tò mò, ngày nọ Marcellino đã leo lên kho trên gác. Cậu sửng sốt khi thấy có một
người khổng lồ bị treo trên Thánh giá. Nghĩ rằng người này đang đói, nên ngay
đêm đó, Marcellino đã lẻn vào bếp ăn cắp bánh và rượu đem lên cho người bị treo
trên Thánh giá. Từ đó, ngày ngày cậu bé cứ âm thầm tiếp tế lương thực cho con
người khốn khổ ấy. Thế rồi, một ngày nọ người khổng lồ ấy xuống khỏi Thánh giá,
đến bên cạnh cậu bé và hỏi:
- “Con thích điều gì nhất”.
Cậu bé đáp:
- “Con muốn được thấy mẹ con”.
Người khổng lồ liền nói:
- “Con hãy nhắm mắt lại và ngủ say”.
Ngày hôm sau, các tu sĩ trong nhà không thấy
Marcellino nữa, họ đi tìm khắp nơi và cuối cùng thấy cậu bé đã chết trong vòng
tay của Chúa Giêsu trên Thánh giá.
Anh chị em thân mến, đối
với Marcellino trong câu chuyện trên, bánh và rượu là ngôn ngữ cậu bé dùng để
nói với Chúa Giêsu: “Con yêu mến Chúa”, “Con muốn được săn sóc Chúa, nuôi dưỡng
Chúa”. Còn đối với Chúa Giêsu, bánh và rượu Ngài ban qua Bí tích Thánh Thể là dấu
chỉ của tình yêu hiến thân để trở thành lương thực nuôi sống chúng ta, và Ngài
muốn chúng ta mở rộng tâm hồn để đón nhận.
Mở rộng tâm hồn đón nhận
Ngài trong Thánh Thể, con người mới có thể mở rộng trái tim và đôi bàn tay để
đón nhận Ngài nơi tha nhân. Chúa Giêsu là Bánh từ trời xuống để lôi kéo họ về với
Thiên Chúa. Chia sẻ sự sống thần linh nơi bàn tiệc Thánh Thể, người tín hữu được
mời gọi chia sẻ cơm bánh hằng ngày với tha nhân. Và kỳ diệu thay, chính khi
chia sẻ với tha nhân, người tín hữu cảm nhận được sự sống trường sinh và hạnh
phúc đích thức tràn ngập tâm hồn.
Thưa anh chị em, Bí tích
Thánh Thể là Bí tích của Tình Yêu. Vì yêu thương chúng ta, Chúa Giêsu đã có một
sáng kiến lạ lùng là lấy chính Thịt Máu của Ngài làm của ăn của uống để nuôi sống
chúng ta. Chính Chúa Giêsu đã khẳng định: Chính Ngài là của ăn và của uống Chúa
Giêsu ban hoàn toàn khác với manna và mạch nước trong sa mạc: “Ai ăn bánh này sẽ
được sống đời đời”. Chúa Giêsu không nhằm thoả mãn cái đói cái khát thể xác. Thế
nên, Ngài xác quyết: “Thịt Tôi thật là của ăn, Máu Tôi thật là của uống”. Vậy
Bánh Ngài ban chính là Thịt Máu Ngài. Cụm từ “Thịt Máu” ở đây không những bao gồm
tất cả những gì nuôi sống linh hồn con người để đưa đến sự sống vĩnh cửu, mà
còn ám chỉ đến Mầu nhiệm Nhập Thể của Con Thiên Chúa. Con Thiên Chúa đã nhập thể
mang lấy xác phàm trong thân phận con người và đã đổ máu ra trên Thập giá để cứu
chuộc nhân loại. Ngài đã chấp nhận trở thành của ăn của uống là những cái thường
tình nhất của cuộc sống chúng ta để đưa chúng ta đến sự sống vĩnh hằng.
Vì lý do đó, Thánh
Phaolô đã nhấn mạnh đến việc hiệp thông với Chúa Giêsu Thánh Thể là kết hiệp mật
thiết với chính Chúa Kitô, nghĩa là đồng hoá với Ngài, nên giống Ngài trong tư
tưởng, ngôn ngữ và cuộc sống: “Ai ăn Thịt Tôi và uống Máu tôi, người ấy sẽ ở
trong Tôi và Tôi ở trong người ấy”. Không bí tích nào giúp chúng ta sống “với
Chúa, nhờ Chúa và trong Chúa” bằng bí tích Thánh Thể. Từ đó, Thánh Phaolô dám
khẳng định: “Tôi sống, nhưng không còn phải là tôi, mà là Đức Kitô sống trong
tôi” (Gl 2,20).
Từ việc kết hợp với Chúa
Giêsu Thánh Thể sẽ đưa chúng ta đến việc hiệp nhất với các anh chị em tín hữu.
Vì liên kết với Chúa Kitô, nên chúng ta cũng liên kết với nhau để làm thành một
thân thể duy nhất trong Chúa Kitô, điều mà Thánh Phaolô gọi là “Nhiệm thể Chúa
Kitô”. Ăn Thịt và uống Máu Chúa Kitô là lãnh nhận một động lực mạnh mẽ nhất để
dẹp bỏ và xua tan những mối bất đồng, những mâu thuẫn sâu xa nhất để chỉ còn trở
nên với Chúa Kitô một thân xác và một linh hồn. Sự hiệp nhất của cộng đoàn Kitô
hữu trong Bí tích Thánh Thể có sức mạnh thu phục những khách bàng quan, những
người xa lạ đến với Giáo Hội, như các tín hữu thời sơ khai đã từng chinh phục
và đem lại ảnh hưởng lớn lao cho thế giới ngoại giáo: Họ nói với nhau: “Kìa xem
coi họ (các tín hữu Kitô) yêu thương đoàn kết với nhau biết chừng nào!” (x.Cv
2,42-47).
Anh chị em thân mến,
“Phúc cho ai được mời đến dự tiệc Chiên Thiên Chúa”. Tất cả chúng ta đều được mời
đến dự tiệc Thánh Thể. Thế nhưng có khá đông người tham dự Thánh lễ mà không tiếp
rước Mình Máu Thánh Chúa. Phải chăng Thánh lễ đối với họ chỉ còn là một nghi thức
và bổn phận phải làm, chứ không còn là sự sống được trao ban và lãnh nhận? Hoặc
phải chăng vì thấy việc rước lễ xem ra không có hiệu quả trong đời sống, nên họ
thất vọng và không muốn rước lễ nữa? “Phúc cho ai được mời đến dự tiệc Chiên
Thiên Chúa”. Chẳng lẽ được mời đến dự tiệc mà chẳng ăn uống gì, chỉ ngồi đó
“nhìn miệng” các thực khách, rồi ra về mà lòng vẫn u sầu và bụng vẫn đói meo?
Thiết tưởng không phải vô ích khi khẳng định lại điều này: Chẳng bao giờ chúng
ta đến với người khác thực sự, nếu không kết hợp thâm sâu với Chúa Kitô.
Đức Cha Helder Camera, Tổng Giám Mục Giáo phận Récite ở
Braxil, đã chia sẻ kinh nghiệm thống nhất đời sống hoạt động và chiêm niệm của
ngài thế này: “Mỗi sáng, tôi được nuôi dưỡng bằng Đức Kitô trong Bí tích Thánh
Thể, rồi suốt ngày, tôi gặp gỡ Đức Kitô nơi anh chị em tôi. Cũng một Chúa Giêsu
ở trên bàn thờ và ngoài đường phố”. Có lẽ chúng ta dễ quên chân lý này: Hiệp nhất
với Chúa Kitô phải đưa đến sự hiệp nhất với anh em. Nói cách khác, hiệp nhất với
Chúa Kitô đang hiện diện ẩn dấu nơi anh chị em mình, nhất là nơi những người
nghèo đói và bất hạnh (x.Mt 25). Và chúng ta cũng hay quên rằng: Hiệp nhất sự sống
phải được thể hiện trong sự hiệp nhất lối sống. Lối sống của Chúa Giêsu Thánh
Thể là lối sống của tình yêu tự hiến để cho nhân loại được sống, là phục vụ đến
hy sinh mạng sống để làm giá cứu chuộc muôn người.
Được nuôi dưỡng cùng một
Bánh Thánh –là Thịt Máu Chúa Giêsu- chúng ta được mời gọi chia sẻ chén cơm hằng
ngày cho anh em và dấn thân hoạt động cho một trật tự công bằng, huynh đệ, cho
cuộc sống ấm no hạnh phúc của mọi người trên thế giới hôm nay.
1. Tình yêu và sự sống
Đã bao thế kỷ trôi qua,
Giáo Hội Công giáo không ngừng đào sâu niềm tin vào sự hiện diện của Chúa Giêsu
trong Bí tích Thánh Thể. Dẫu có gặp muôn vàn thử thách, dẫu phải đương đầu với
bao chỉ trích, người tín hữu vẫn kiên vững trong niềm tin không lay chuyển, bởi
chính họ biết rõ Thánh Thể đã đem lại cho họ những gì trong cuộc hành trình
thiêng liêng của cuộc đời.
Mỗi thánh lễ là một lễ
kính Mình Máu Thánh Chúa. Nhưng ngày lễ trọng được ấn định hàng năm phải là một
dịp đặc biệt để chúng ta suy niệm cách sâu sắc hơn về một chân lý vốn được gọi
là suối nguồn, là đỉnh cao của đời sống người Kitô hữu, đó là Bí tích Thánh Thể.
Đã hẳn, trong Bí tích
Thánh Thể, Chúa Giêsu ở đó để thực hiện lời hứa: Thầy ở cùng các con mọi ngày
cho đến tận thế.
Nhưng trước hết sự hiện
diện ấy nhằm tái diễn hy tế thập giá của Ngài. Thực vậy, Bí tích Thánh Thể
không phải là một hy tế mới và độc lập, thay thế hay bổ túc cho hy tế thập giá,
nhưng là lặp lại hy tế chỉ diễn ra một lần trên thập giá. Cũng một lễ vật, cũng
một Đấng đã tự hiến đời mình thuở xưa trên thập giá, còn nay hiến tế qua tác vụ
của linh mục trong thánh lễ. Có khác chăng là khác trong cách thức biểu lộ mà
thôi.
Như dân Do Thái hằng nhớ
lại những kỳ công Thiên Chúa, đặc biệt là hai biến cố: Thiên Chúa giải phóng
dân khỏi ách nô lệ Ai Cập và không ngừng ban lương thực của Ngài cho dân suốt dọc
theo những nẻo đường sa mạc. Trong thánh lễ, Giáo Hội cũng nhớ lại cuộc vượt
qua của Đức Kitô và việc Ngài ban Thánh Thể cho dân mới trên đường lữ hành trần
thế.
Thực vậy, tiếp nối Manna
trong hoang địa, Thánh Thể trở nên lương thực, trở nên của ăn đàng cho Israel mới
là Giáo Hội. Nhưng Manna mới chỉ là hình ảnh tượng trưng, chứ không thể nào
sánh ví được với Bí tích Thánh Thể. Bởi vì cũng như bao lương thực trần gian
khác, Manna vẫn để con người lại đó với cơn đói và nỗi khát khao vĩnh cửu.
Manna chỉ cho người ta sống tạm để khỏi chết chứ không giúp người ta khỏi chết
đời đời. Chính thân thể vinh hiển của Đức Kitô mới thực là bánh ban sự sống: Ta
là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này thì sẽ sống đời đời.
Chúa Giêsu đã trở nên
bánh khi hiến mình làm lễ tế dâng lên Chúa Cha. Chúa Cha đã chấp nhận lễ hy tế ấy
bằng cách tôn vinh Chúa Giêsu và đưa vào trong vinh quang của Ngài. Ngài nhận lễ
vật mà Chúa Giêsu thay cho loài người dâng tiến, để rồi ban lại cho loài người
như của ăn thánh. Từ của ăn thánh ấy, loài người kín múc sự sống để thông hiệp
với Thiên Chúa… Và trong bữa tiệc ấy, Thiên Chúa hòa niềm vui của Ngài với tiếng
cười của nhân loại. Những ai đón nhận của ăn thánh ấy sẽ được lôi kéo vào trong
quỹ đạo của tình yêu Thiên Chúa và lưu lại trong Ngài: Ai ăn thịt Ta và uống
máu Ta, thì sẽ ở lại trong Ta và Ta ở trong kẻ ấy. Người ăn uống Mình Máu Chúa
sẽ thuộc về Chúa từ đời này và mai này thuộc về Ngài mãi mãi.
Như thế, Thánh Thể thực
hiện trước bữa tiệc cánh chung trong nước trời, sẽ được cử hành trong niềm vui
rượu mới. Và như thế Thánh Thể là dấu chỉ cho đời sống vĩnh cửu đã khởi sự và
là bảo chứng cho sự sống lại trong ngày sau hết.
12. Thánh Thể
Chúa Giêsu thiết lập Bí
tích Thánh Thể trong bối cảnh của lễ Vượt Qua của người Do Thái, một đại lễ lớn
nhất của dân tộc. Đại lễ này tưởng niệm lại hành động can thiệp đầy quyền năng
của Thiên Chúa, trong việc dẫn dắt dân Người thoát khỏi ách nô lệ ở Ai Cập. Bữa
ăn Vượt Qua là một nghi lễ long trọng. Bữa ăn tưởng niệm lại một việc trong quá
khứ, và đang khi cử hành việc tưởng niệm đó thì quyền năng của Thiên Chúa lại
được tái hiện.
Chúa Giêsu nói: “Các con hãy làm việc này mà tưởng nhớ đến
Thầy”. Mỗi khi chúng ta cử hành Bí tích Thánh Thể thì quyền năng và tình
yêu của Chúa Giêsu lại được tái hiện. Nhưng không chỉ như thế, chính Chúa Giêsu
lại hiện diện thật sự ở giữa chúng ta.
Trong khi đó, nhiều người
Công giáo lại không ý thức đủ. Họ đi tham dự thánh lễ mà lại đến trễ, về sớm.
Vài người lại nói chuyện với nhau hay chỉ nhìn ngắm kẻ khác. Nhiều người vào
trong nhà thờ mà không tỏ sự tôn kính Chúa Giêsu Thánh Thể đang hiện diện trong
Nhà Tạm. Nhiều người không rước lễ và hầu như không còn để ý đến việc đó nữa.
Nhiều người ăn vận trang phục bất xứng, thứ trang phục mà họ không dám mặc khi
đến thăm một người bạn. Trong khi xếp hàng lên rước Mình Thánh Chúa Giêsu, một
số người thay vì tập trung vào việc chuẩn bị đón Chúa ngự vào tâm hồn mình thì
lại đưa mắt nhìn quanh khắp cả nhà thờ.
Tại sao lại xảy ra tình
trạng đáng buồn như vậy? Thật là tốt đẹp khi Giáo hội khuyến khích các tín hữu
thường xuyên rước lễ và tạo điều kiện dễ dàng cho việc này. Nhưng cũng vì thế
mà xảy ra tình trạng người giáo dân ơ hờ, trễ nải đối với Chúa Giêsu Thánh Thể.
Cũng có một số tín hữu chịu ảnh hưởng của Tin lành cho rằng Bánh Thánh chỉ là
biểu tượng của Chúa Giêsu mà thôi. Nhưng Chúa Giêsu không nói: “Đây là biểu tượng
của Mình Thầy”. Chúa nói cách rõ ràng: “Đây là Mình Thầy”.
Ước gì đại lễ kính Mình
Thánh Chúa Giêsu Kitô hôm nay giúp mọi tín hữu Công giáo ý thức hơn về sự hiện
diện thật sự của Chúa Giêsu Kitô trong Bí tích Thánh Thể. Ước gì ngày lễ hôm
nay canh tân tâm tình biết ơn của chúng ta đối với quà tặng vô giá, mà Chúa
Giêsu ban cho chúng ta là chính Thịt Máu Chúa. Càng ý thức hơn về sự hiện diện
thật sự của Chúa Giêsu trong Bí tích Thánh Thể, chúng ta càng có thêm sức mạnh
để tiến bước trên hành trình đức tin của mình.
Lạy Chúa, con cảm tạ
Chúa vì quà tặng vĩ đại Chúa đã ban cho con là Bí tích Thánh Thể. Xin Chúa giúp
con luôn xác tín vào sự hiện diện của Chúa Giêsu trong bí tích này và hết lòng
tôn sùng mến yêu.
13. Bữa tiệc
Để cổ động cho việc cầu nguyện chung trong gia đình,
linh mục Pê-tanh đã nói: “Gia đình nào cầu nguyện chung với nhau thì sẽ sống hiệp
nhất với nhau”. Việc cầu nguyện chung trong gia đình sẽ củng cố mối dây hiệp nhất
mọi thành phần với nhau mỗi ngày một thêm bền chặt. Dù không muốn nói ngược lại
linh mục Pê-tanh và không muốn làm giảm giá trị của việc cầu nguyện chung trong
gia đình, nhưng cha Gioan Tô-mát, dòng Tên đã nhấn mạnh một khía cạnh khác,
cũng quan trọng không kém, đó là việc dùng cơm chung với nhau thì sẽ sống hiệp
nhất với nhau.
Bữa ăn chung trong gia
đình có một tầm quan trọng và ý nghĩa đặc biệt của nó mà ngày nay nhiều người
đã bỏ quên hoặc không quan tâm cho đủ. Không phải bất cứ người xa lạ nào cũng
có thể ngồi vào bàn ăn dùng bữa chung trong gia đình. Một người nào được mời
dùng bữa với gia đình là dấu chỉ được chấp nhận vào tình thân với gia đình đó,
người được mời đến dùng bữa với gia đình là người được gia đình đó quý mến. Bữa
ăn tạo dựng sự hiệp thông và yêu thương thân thiết ngày càng bền chặt hơn.
Bữa ăn chung trong gia
đình làm cho mọi thành phần vợ chồng, cha mẹ, con cái, anh chị em được hiệp nhất
với nhau, được dịp chia sẻ những niềm vui, những quan tâm lo lắng của nhau. Nếu
quan sát thêm chúng ta sẽ thấy vai trò của mỗi người được biểu lộ cách rõ ràng
trong bữa ăn chung. “Một gia đình dùng bữa chung với nhau sẽ sống hiệp nhất với
nhau”, lý tưởng là như thế, nhưng không phải tất cả mọi người, mọi gia đình
ngày nay đều có thể thực hiện được lý tưởng cao đẹp này. Nhiều gia đình đã bỏ mất
dịp tốt này, mọi người vội vàng lo cho mình có chút gì vào bụng rồi mau chóng
đi lo công việc riêng, mọi người không còn xếp đặt công việc để có thể tham dự
bữa cơm chung trong gia đình nữa, nhưng mỗi người xếp đặt đời sống theo một sở
thích riêng hay một nhu cầu riêng. Cha mẹ lo làm việc xếp đặt đời sống chạy
theo công việc nên không còn quan tâm đến việc ăn cơm chung với con cái; phần
con cái bận việc với bạn bè hay công việc riêng của mình nên cũng chẳng màng
chi đến bữa cơm chung. Mỗi người trong gia đình đều có lý do riêng để không ăn
cơm chung với nhau, nhiều gia đình ngày nay tan vỡ có lẽ vì hai lý do: không cầu
nguyện chung với nhau và không ăn cơm chung với nhau. Chúng ta hãy nhìn lại gia
đình mình và kiểm điểm theo hai nguyên tắc căn bản trên: cầu nguyện chung và
dùng cơm chung.
Chúa Giêsu cũng dùng một
bữa ăn, bữa ăn tối cuối cùng với các môn đệ để thiết lập Bí tích Thánh Thể.
Chúa đã làm cho bữa ăn cuối cùng này không phải là bữa ăn chứng tỏ tình bạn như
trước đây, cũng không phải là bữa ăn để Ngài tự tỏ mình ra như một Môsê mới bằng
cách ban phát Manna mới cho họ qua việc hóa bánh ra nhiều, nhưng là bữa ăn liên
kết tình bạn và tình yêu.
Chính vì thế thánh Gioan
đã viết: “Ngài đã yêu thương các môn đệ của Ngài và đã yêu thương họ đến cùng”.
Yêu thương đến cùng có nghĩa là yêu thương đến tột bực. Tột bực tình yêu của
Ngài ở đây là việc lập Thánh Thể. Thực vậy, Chúa Giêsu đã ghi dấu đặc biệt của
Ngài nơi bữa tiệc này, để từ nay Ngài trở thành nơi gặp gỡ tình yêu giữa chúng
ta với Ngài và giữa chúng ta với nhau.
Vì thế, Thánh Thể được gọi
là bí tích của sự hiện diện. Chúa Giêsu vừa báo trước cho các môn đệ là Ngài sẽ
giã từ thế gian để về cùng Cha. Ngài sẽ phải xa cách họ luôn sao? Không, trong
tình yêu thương, Ngài đã tìm ra một phương thế để ở lại với các môn đệ và qua mọi
thời gian, ở lại với tất cả những ai tin vào Ngài. Phương thế tuyệt diệu đó là
Bí tích Thánh Thể, nhờ đó Ngài hiện diện thực sự và trải dài sự hiện diện đó đến
tận cùng thời gian qua mọi người để ban cho họ những điều tốt lành.
Đây là một mầu nhiệm đức
tin, bởi vì lý trí chúng ta không hiểu được, giác quan chúng ta không cảm nhận
được, chỉ có đức tin dạy cho chúng ta biết: Chúa hiện diện thật sự trong Bí
tích Thánh Thể, nên khi rước lễ là chúng ta ăn Mình Chúa và uống Máu Chúa, là
lương thực vừa giúp chúng ta sống khỏe, sống mạnh, sống tốt đẹp ở đời này vừa bảo
đảm cho sự sống lại và cuộc sống vĩnh cửu, như Chúa đã quả quyết: “Ai ăn thịt
Tôi và uống máu Tôi thì Tôi sống trong người ấy, và Tôi sẽ cho người ấy sống lại
trong ngày sau hết và được sống đời đời”. Như vậy, người ăn Mình Chúa và uống
Máu Chúa sẽ thuộc về Chúa ngay từ đời này và mai ngày thuộc về Ngài mãi mãi.
Thánh Thể là dấu chỉ cho đời sống vĩnh cửu đã khởi sự, và là bảo chứng cho sự sống
lại ngày sau hết. Vì vậy, chúng ta hãy siêng năng rước lễ để chúng ta được kết
hiệp với Chúa Kitô, và sự kết hiệp đó đưa chúng ta đến sự hiệp thông với nhau,
tức là yêu thương nhau. Đúng ra phải như vậy, nhưng thực tế có được như vậy
không? Có lẽ nhiều người Kitô hữu quên mất điều này: hiệp thông với Chúa Kitô
phải đưa đến sự hiệp thông với nhau.
Tóm lại, khi dâng thánh
lễ là chúng ta cùng tham dự bàn tiệc Thánh Thể, chia sẻ Mình Máu Chúa Kitô, Đấng
đã hiến cả cuộc đời mình nên của lễ tình yêu. Xin Chúa cho chúng ta một khi đã
được hiệp thông với Chúa, thì cũng biết hiệp thông với nhau bằng cuộc sống yêu
thương phục vụ để cùng nhau xây dựng một thế giới tốt đẹp hơn.
14. Dấu chỉ của tình yêu
Hôm nay, mừng kính Mình
và Máu thánh Đức Kitô, chúng ta cùng nhau dừng lại để chia sẻ một vài ý nghĩ
đơn sơ về bí tích Thánh thể.
Trước hết, bí tích Thánh thể là dấu chỉ của tình Chúa.
Thực vậy, khi yêu thương
ai, chúng ta muốn được ở gần người đó để hàn huyên tâm sự, như ca dao đã bảo:
- Yêu nhau tam tứ núi
cũng trèo,
Thất bát sông cũng lội,
Tứ cửu tam thập lục đèo cũng qua.
- Yêu nhau chẳng quản xa
gần,
Mấy sông cũng lội, mấy ngàn cũng qua.
Hiểu theo chiều hướng
này, thì Chúa Giêsu đã yêu thương chúng ta bằng một tình yêu không bờ không bến,
vì Ngài không phải chỉ đi qua vài ba ngọn đồi, lội qua dăm bảy con suối để đến
với chúng ta. Trái lại, Ngài đã đi con đường dài nhất, con đường từ vô biên đến
hữu hạn, con đường từ trời xuống đất, con đường từ một Thiên Chúa toàn năng đến
một kẻ nghèo hèn, để trở thành một Emmnuel, nghĩa là một Thiên Chúa ở cùng
chúng ta.
Ở cùng chúng ta hơn ba
chục năm mà thôi chưa đủ, Ngài lại còn muốn ở cùng chúng ta mãi mại, cho đến tận
cùng thời gian qua bí tích Thánh thể.
Tuy nhiên, Ngài không phải
chỉ ở bên cạnh chúng ta, đi bên lề cuộc sống chúng ta như một kẻ xa lạ. Trái lại,
Ngài còn muốn thấm nhập và trở nên một với chúng ta.
Bởi đó, mỗi khi lên rước
lễ, chúng ta sẽ được kết hiệp và gắn bó mật thiết với Chúa. Sự kết hiệp và gắn
bó này còn mật thiết hơn cả tình bè bạn, tình cha mẹ, tình vợ chồng, bởi vì
chúng ta sẽ trở nên một với Ngài.
Giọt nước hòa tan trong
rượu thế nào, chúng ta cũng sẽ được hòa tan trong Chúa như vậy. Thanh sắt nung
trong lửa, sẽ nóng và đỏ như lửa thế nào, chúng ta cũng sẽ được trở nên giống
Chúa như vậy.
Ngoài ra, khi yêu thương
ai, ngoài việc muốn được ở gần người đó, chúng ta còn cố gắng làm cho người đó
được hạnh phúc: nào là thư từ, nào là quà cáp, nào là thăm hỏi…
Nếu hiểu theo chiều hướng
này, thì Chúa Giêsu cũng đã yêu thương chúng ta bằng một tình yêu không bờ
không bến bởi vì Ngài đã xuống thế để làm gì nếu không phải là để giải thoát chúng
ta khỏi tội lỗi và án phạt đời đời.
Rồi suốt cả cuộc đời,
Ngài đã thực hiện biết bao nhiêu hành động yêu thương. Ngài đã cúi xuống xoa dịu
những đớn đau, chữa lành mọi bệnh tật, xua trừ ma quỉ. Hơn thế nữa, Ngài còn chết
trên thập già để cứu độ chúng ta như lời Ngài đả phán:
- Không ai yêu hơn người
hiến mạng sống mình vì bạn hữu.
Bằng đó mà thôi cũng
chưa đủ, Ngài còn theít lập bí tích Thánh thể để trở nên của ăn nuôi sống linh
hồn và đảm bảo cho chúng ta cuộc sống vĩnh cửu:
- Ai ăn thịt Ta và uống
máu Ta thì sẽ được sống đời đời.
Một người Cha trước khi
chết thường trối lại cho con cháu bản chúc thư. Những người yêu nhau trước khi
đi xa, thường trao tặng cho nhau những kỷ vật. Cũng vậy, là một người cha, Đức
Kitô trước khi chịu chết, đã trối lại cho các môn đệ cũng như cho mỗi người
chúng ta một bản chúc thư, đó là giới luật yêu thương. Là một người tình, Đức
Kitô trước khi ra đi, đã trao tặng cho chúng ta một kỷ vật, đó là thịt máu
Ngài.
Và như thế, bí tích
Thánh thể chính là dẩu chỉ tình yêu bao la mà Chúa Giêsu đã dành cho chúng ta.
Tiếp đến, bí tích Thánh thể còn là dấu chỉ của tình
người.
Thực vậy, nhìn vào một bữa
ăn, một bàn tiệc, chúng ta tìm thấy ngay được dấu chỉ của sự yêu thương và hiệp
nhất.
Tiên vàn, những người ngồi
cùng bàn đều có một mẫu số chung nào đó. Có thể là chia sẻ một niềm vui như đi
tự tiệc cưới. Có thể là chia sẻ một nỗi buồn như đi ăn đám giỗ. Có thể là chia
sẻ một băn khoan lo lắng như bữa tiệc trước khi tính toán và bắt đầu một công
việc quan trọng.
Ngoài ra, khi quây quần chung
quanh một bàn ăn, chúng ta còn chia sẻ với nhau một nguồn sống, là những thức
ăn do lao công vất vả của nhiều người làm nên. Chính những thức ăn này sẽ được
tiêu hóa và trở nên thịt máu, trở nên một phần cơ thể chúng ta. Bởi đó, chúng
ta thường phải tránh đi những bất hòa, xích mích trong bữa ăn: trời đánh còn
tránh bữa ăn.
Chúa Giêsu cũng đã thiết
lập bí tích Thánh thể dưới hình thức một bữa ăn, một bàn tiệc. Chính vì thế, ý
nghĩa của sự yêu thương và hiệp nhất cần phải được nổi bật, bởi vì chúng ta cùng
ăn một của ăn thiêng liêng muôi sống linh hồn, như thánh Phaolô đã viết:
- Mặc dù chúng ta tuy
nhiều, nhưng cùng chia sẻ một tấm bánh và làm nên một thân thể Đức Kitô.
Hơn thế nữa, nơi bàn tiệc
Thánh thể, mọi người đều bình đẳng vì tất cả đều là con cái Chúa, không còn
phân biệt già hay trẻ, sang hay hèn…Các tín hữu sơ khai đã ý thức được chân lý
căn bản này, họ đã biến nghi thức bẻ bánh, hay bàn tiệc Thánh thể trở nên nơi
qui tụ cho tình thương. Họ mang rượu bánh đến góp chung để dâng lễ, để nuôi sống
linh mục và tu sĩ, cũng như để giúp đỡ những người nghèo.
Tình bác ái huynh đệ này
không phải chỉ đóng khung trong khi tham dự nghi thức bẻ bánh, mà còn được nối
tiếp trong cuộc sống, vì trong cuộc sống, họ đã góp chung tiền bạc, tài sản để
cho các tông đồ phân phối theo nhu cầu.
Từ những xác quyết trên,
chúng ta đi tới hai kết luận. Kết luận thứ nhất, vì bí tích Thánh thể là dấu chỉ
của tình Chúa, nên chúng ta hãy siêng năng tham dự thánh lễ và nhất là rước lễ
mỗi khi có thể, để đáp trả những yêu thương Ngài đã dành cho chúng ta.
Kết luận thứ hai, vì bí
tích Thánh thể là dấu chỉ của tình người, nên chúng ta hãy cố gắng sống bác ái.
Không phải chúng ta chỉ hòa giải và yêu thương trong thánh lễ, trong nhà thờ,
mà còn phải hòa giải và yêu thương trong cuộc sống, bởi vì cuộc sống ngập tràn
tình bác ái chính là một thánh lễ nối dài, và những hy sinh chúng ta vui lòng
chịu vì người khác sẽ là những lễ vật xuất phát từ lòng cuộc đời, chúng ta dâng
tiến Chúa.
15. Tình Chúa
Vào tháng 12 năm 1987 một cơn động đất lớn đã xảy ra ở
xứ Armênia thuộc Liên Xô cũ giết chết hằng ngàn người. Trong số những người bị
chôn dưới đống gạch vụn có 2 mẹ con bà Suzanna. Mẹ con may mắn nằm lọt vào
trong một khoảng trống nhỏ. Tất cả lương thực họ có chỉ là một hũ mứt nhỏ.
Nhưng chẳng bao lâu hũ mứt cũng hết sạch. Lúc đó đứa con 4 tuổi kêu lên: “Mẹ ơi
con khát quá”. Bà Suzanna không biết tìm đâu ra nước cho con. Nhưng tình máu mủ
đã gợi cho bà một sáng kiến táo bạo: bà dùng một miếng kính vỡ cắt đầu ngón tay
mình cho máu chảy ra và đưa vào miệng đứa con cho nó mút. Một lúc sau nó lại
kêu khát, bà lại cắt một đầu ngón tay nữa. Cứ như thế cho đến khi người ta cứu
2 mẹ con ra. Sau khi ra ngoài, bà mẹ cho biết rằng: “Lúc đó tôi biết thế nào
tôi cũng chết. Nhưng tôi muốn con tôi sống”
Câu chuyện trên thật cảm
động. Nhưng vẫn không cảm động bằng việc Đức Giêsu tự hiến dâng thịt máu mình
cho chúng ta. Bà Suzanna đã lấy máu của mình nuôi con khi bà biết rằng chắc chắn
bà sẽ chết. Thay vì chết cách vô ích. Bà đã hy sinh dòng máu của mình để cho đứa
con được sống. Đó là sự hy sinh trong một tình thế bó buộc. Còn Đức Giêsu thì
không có gì bắt buộc cả: Ngài đến trần gian để chết cho loài người. Càng ngày
Ngài càng tiến gần đến cái chết. Tuy nhiên bất cứ lúc nào Ngài cũng có thể
thoát khỏi cái chết ấy. Dù vậy Ngài vẫn cương quyết đi đến cái chết và cương
quyết lấy thịt máu mình làm lương thực nuôi sống loài người chúng ta. Thật đúng
là: “Không có tình yêu nào cao trọng cho bằng tình của người dám chết cho người
mình yêu thương”. Điểm thứ hai khác biệt giữa bà Suzanna với Đức Giêsu là: việc
bà Suzanna hy sinh máu mình cho đứa con chỉ xảy ra một lần; còn việc Đức Giêsu
ban thịt máu Ngài cho chúng ta xảy ra hằng ngày, như lời Ngài đã truyền dạy
“Chúng con hãy làm việc này để nhớ đến Ta”. Mỗi lần Giáo hội dâng Thánh lễ là mỗi
lần việc hy sinh của Đức Giêsu được lập lại, lập lại không chỉ như một tưởng niệm
mà lập lại với tất cả hiệu quả có nó. Hiệu quả ấy là như lời Đức Giêsu đã nói:
“Ai ăn Thịt Ta và uống máu Ta thì sẽ được sống muôn đời”.
Một điều đáng buồn là
lòng chúng ta đã thành chai đá trước tấm lòng của Chúa mà lẽ ra phải khiến
chúng ta hết sức cảm động. Ngày nay ở phương Tây, số giáo dân Pháp, chỉ còn có
10% giáo dân dự lễ Chúa Nhật. Còn bên Việt Nam chúng ta, số người bỏ lễ Chúa Nhật
cũng càng ngày càng nhiều. Trong số những kẻ còn đi lễ thì nhiều người đứng
ngoài Nhà thờ, vừa dự lễ vừa trò chuyện và hút thuốc. Hình như rất nhiều người
đi lễ chỉ vì sợ phạm tội trọng.
Khi Nữ Tu Têrêxa Calcutta sang Liên Xô xin mở trụ sở
bác ái, Bà đã gặp các vị lãnh đạo chính quyền và đã được đồng ý nhanh chóng.
Tuy nhiên khi bà xin cho có Linh mục tại những trụ sở đó thì các vị ấy đã ngần
ngại. Lúc Mẹ Têrêxa giải thích: Nguồn sức mạnh của các Nữ Tu chúng tôi là do
Mình Thánh Chúa. Nhờ mỗi ngày được rước Mình Thánh Chúa nên các Nữ Tu chúng tôi
có sức hy sinh quên mình để phục vụ những người nghèo khổ. Do đó cần phải có
Linh mục để mỗi ngày dâng Thánh Lễ và cho chúng tôi rước lễ. Mẹ Têrêxa và các nữ
tu của Bà là những người đã cảm nghiệm được Lời Chúa phán khi lập phép Mình
Thánh Chúa “Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta thì sẽ được sống muôn đời”.
Hôm nay lễ Mình và Máu
Thánh Chúa Giêsu. Chúng ta ôn lại tình yêu bao la của Đức Giêsu khiến Ngài chịu
chết vì chúng ta và trước khi chết đã ban Mình và Máu Ngài làm thương thực nuôi
linh hồn chúng ta.
Nhưng chúng ta cũng nhận
thấy sự giảm sút lòng sốt săng của chúng ta đối với việc dự lễ và rước lễ.
Chúng ta thờ ơ với một thứ lương thực quý giá mà Chúa đã ban. Chúng ta bỏ mất
biết bao ơn ích do việc rước lễ mà nhiều người đạo đức rất quý chuộng.
Giờ đây chắc chúng ta biết
mình phải làm gì:
- Trước hết, là những
người làm cha mẹ, làm ông bà, chúng ta hãy nhắc nhở và khuyến khích con cháu
mình thường xuyên tham dự Thánh Lễ và Rước lễ sốt sắng.
- Phần chúng ta, mỗi khi
dự lễ và Rước Lễ, chúng ta hãy cố gắng sốt sắng. Đừng làm một cách máy móc theo
thói quen, nhưng hãy đặt hết tâm tình vào đó.
Để kết thúc, xin trích đọc sau đây tâm tình của
một người đã biết cách dự lễ và rước lễ sốt sắng: “Mỗi Thánh Lễ, tôi lại cảm thấy
có điều gì đó cần thống hối cách đặc biệt. Mỗi Thánh Lễ, tôi lại thấy mình muốn
đặt lên đĩa Thánh một chút cố gắng riêng tư, đau khổ, mơ ước, thao thức… Tôi
không đi dự Thánh Lễ với hai bàn tay trắng, nhưng với lễ vật là chính cuộc đời
tôi. Trong mỗi Thánh Lễ, Lời Chúa lại tác động đến tôi, những lời nói đã nghe
nhiều lần tôi nhớ rằng Ngài đã trở nên tấm bánh bẻ ra cho tôi, và tôi cũng phải
trở nên tấm bánh bẻ ra cho anh chị em tôi”.
16. Tình Chúa
Du khách đến Huế không thể quên được Nam Giao, cũng
như đến Bắc Kinh không thể bỏ qua Điện Trời. Chính tại nơi đây, hàng năm nhà
vua sẽ tế Trời thay cho toàn dân.
Tại Huế, Điện Thái Hòa, cửa Ngọ Môn và đàn Nam Giao
cũng nằm ngay trên một đường Thẳng. Điện Thái Hòa là nơi vua quan lo việc triều
chính. Cửa Ngọ Môn quay về hướng nam. Khi mặt trời lên tới đỉnh đầu, lúc 12 giờ
trưa, tức là giờ Ngọ, thì hình và bóng sẽ trở nên đồng nhất.
Từ Điện Thái Hòa, vua sẽ qua cửa Ngọ Môn, tiến về
phương nam đển lên đàn Nam Giao thay dân tế Trời. Sau khi ăn chay nằm đất, vua
sẽ bước lên tế đàn hình vuông tượng trưng cho đất, rồi mới tiến lên tế đàn hình
tròn, tượng trưng cho Trời. Chính tại nơi đó, vua sẽ long trọng thay mặt toàn
thể con dân tế Trời.
Vua trần gian thay dân tế
Trời bằng những của lễ vật chất. Vua vũ trụ, Đức Giêsu Kitô dùng chính thân xác
và linh hồn của Người để tế lễ cho Thiên Chúa.
Vua trần gian thay dân tế
Trời rồi trở lại với công việc triều chính. Vua Giêsu khi tế lễ cho Thiên Chúa
lại dùng chính thân xác mình làm của ăn của uống nuôi toàn dân.
“Này là Mình Ta, các con
hãy cầm lấy mà ăn… Này là Máu Ta các con hãy cầm lấy mà uống”. Tiệc Thánh Thể
này đã được chính Đức Giêsu tiên báo trong tiệc cưới Cana, đã được Người hứa
ban cho dân ở Caphanaum, đã được Người thiết lập ở Giêrusalem trước khi bước
vào cuộc khổ nạn, và đã được chính Người cử hành đầu tiên tại làng quê hẻo lánh
Emmau. Bốn khung cảnh này hòa quyện, đan kết với nhau tuyệt đẹp trong ngày lễ
Mình Máu Thánh Chúa.
Thánh Thể chính là trung
tâm đời sống người tín hữu Kitô.
Thánh Thể chính là mối
hiệp nhất giữa Thiên Chúa với con người, và giữa con người với nhau.
Thánh thể chính là món
quà Thiên Chúa trao tặng cho nhân loại.
Thánh Thể chính là lương
thực thiêng liêng cho cuộc sống người tín hữu.
Thánh Thể chính là bảo đảm
cho hạnh phúc trường cửu của chúng ta.
Mầu nhiệm tình yêu này
vượt quá tầm trí mọn của con người. Đức Giêsu đã tự hiến trọn vẹn cho chúng ta,
đến nỗi Người không thể cho chúng ta điều gì hơn thế nữa.
Thánh Thể chính là sáng
kiến táo bạo nhất của Thiên Chúa đang yêu. Trước khi giã từ cõi thế. Người
không còn gì quý hơn để ban tặng cho con người. Người đã trao ban cả thân xác,
để thấm nhập vào xác thân con người. Yêu là cho đi, là cho hết, cho cả cuộc đời.
17. Kể lại câu chuyện
Trên một ngọn đồi ở gần Cape Town, Nam Phi, ngay bên
dưới ngọn núi Table nổi tiếng, có một khẩu súng mỗi ngày đều được bắn vào mỗi
buổi trưa. Ngọn đồi đó được biết đến như là ngọn đồi Đánh Dấu. Việc bắn súng đã
từng phục vụ cho một mục đích tốt đẹp. Nó báo hiệu có một con tàu trên đường đi
tới hoặc rời khỏi Ấn Độ, đã đến bến cảng, với đầy hàng hóa, và được cung cấp thực
phẩm và thức uống. Kết quả là một cuộc trao đổi đẹp đẽ. Có sự tiếp nhận và có sự
cho đi.
Nhưng cảnh đó diễn ra từ trước đây rất lâu. Hiện nay,
mục đích này không còn tồn tại nữa. Tuy nhiên mỗi ngày, khẩu súng đó vẫn còn được
bắn một cách nghiêm túc, mặc dù bây giờ, tiếng súng bắn nhỏ hơn, như một lễ
nghi không có nội dung. Việc bắn súng này đã từng mang một ý nghĩa thật đẹp. Hiện
nay, ý nghĩa này không còn nữa. Hầu hết người dân địa phương đều không để ý tới
tiếng súng đó. Người ta nói với các du khách “nếu giữa trưa, bạn nghe thấy môt
tiếng nổ lớn, thì đừng lo lắng gì cả. Đó chỉ là tiếng súng thôi”.
Tuy nhiên, lễ nghi đó vẫn
còn có một mục tiêu. Hầu hết mọi người đều biết về câu chuyện phía sau lễ nghi
đó. Nếu câu chuyện này bị mất đi, thì lễ nghi đó sẽ lại càng trở nên nghèo nàn
hơn.
Phép Thánh Thể cử hành một
sự kiện tuyệt vời – ân sủng mà Đức Giêsu đã thay mặt chúng ta thực hiện bằng
chính sự sống của Người. Mỗi lần chúng ta cử hành Phép Thánh Thể, là chúng ta kể
lại câu chuyện này. Nhưng giống như bất cứ điều gì được lập đi lập lại, có một
nguy cơ là điều đó có thể trở thành một thứ lễ nghi mà thôi.
Trong Phép Thánh Thể, Đức
Giêsu nuôi dưỡng chúng ta bằng bánh ban sự sống. Nhưng điều đó không có nghĩa
là sự giao thông một chiều. Khi được đón nhận Đức Giêsu, Người chờ đợi chúng ta
có một gì đó để đáp trả lại – không phải là cho bản thân Người, mà cho nhau.
Nhưng thông thường, việc đón nhận Phép Thánh Thể lại không tạo ra được hiệu quả
đáng lẽ phải có – hiến thân phục vụ người khác một cách vô vị lợi.
Chúng ta vẫn tiếp tục
công bố về bánh và chén, “Đây là mình Thầy, hiến thân vì anh em… Đây là máu Thầy,
đổ ra vì anh em”. Tuy nhiên, dường như Phép Thánh Thể ít có hiệu quả trên con
người. Chúng ta không nhìn thấy người nào chịu hiến mạng sống của mình, trong
việc phục vụ người khác. Người nào ăn bánh và uống chén này mỗi ngày, thì thường
đang được sống cuộc sống trung tâm của mình.
Đối với người Do thái, sự
ghi nhớ không chỉ là kể lại. Đó là trình bày cho mỗi thế hệ về những sự kiện
mang tính cách giải quyết trong quá khứ. Cũng tương tự như vậy, Phép Thánh Thể
không chỉ là giới thiệu về Mình và Máu Đức Kitô, mà còn loan báo và tưởng nhớ về
cái chết ban sự sống của Người.
Phép Thánh Thể là trung
tâm của tất cả mọi sự. Nhưng không bao giờ có thể tách rời Phép Thánh Thể ra khỏi
sự thanh tẩy bản thân. Có hai chân lý được nối kết với nhau – chúng ta được hiệp
thông với Đức Giêsu, để có thể hiệp thông với người khác.
Thật là một điều đáng tiếc,
nếu Phép Thánh Thể chỉ là một lễ nghi, một thứ lễ nghi trống rỗng. Ở đây, Đức
Giêsu hiến thân cho chúng ta, để đến lượt mình, chúng ta có thể hiến thân cho
anh em.
18. Chia sẻ
Trong ý nghĩa yêu
thương, trước giờ biệt ly, Chúa Giêsu muốn để lại cho loài người một vật kỷ niệm.
Người đời trước khi đi xa, thường lưu lại cho người thân thích một món đồ nào
đó để ghi nhớ: một cuốn sách, một khăn tay, một tấm hình, một cái áo, một chiếc
nhẫn v.v… Đối với Chúa Giêsu, những vật đó hay bất cứ vật nào cũng đều tầm thường
quá, hời hợt quá, không đủ nói lên tấm lòng yêu thương nồng nhiệt của Chúa đối
với nhân loại. Kỷ vật Chúa muốn lưu lại cho loài người phải hết sức đặc biệt,
đó là chính bản thân Chúa.
Nhưng bản thân bằng
xương bằng thịt của Chúa lại sắp sửa bị bắt và bị giết chết. Do đó, Chúa đã thực
hiện ý muốn trên bằng một thể thức vô cùng linh diệu, là lưu lại bản thân dưới
hình thức nhiệm mầu. Chúa lấy bánh và rượu biến đổi thành Mình và Máu Ngài:
“Này là Mình Thầy”, “Này là chén Máu Thầy”. Với những lời ấy, Chúa Giêsu đã lập
Phép Thánh Thể. Rồi Chúa còn truyền cho các môn đệ: “Các con hãy làm việc này
mà nhớ đến Thầy”, tức là Chúa ban quyền cho các môn đệ được làm việc cao quý
này để tưởng niệm đến Ngài.
Như thế, trong bữa tiệc
ly và cũng là thánh lễ đầu tiên do Chúa Giêsu cử hành, Chúa đã thiết lập Bí
tích Thánh Thể và ban quyền chức linh mục cho các tông đồ. Từ đó trở đi, cho tới
ngày nay, và cho tới tận thế, trong thánh lễ, khi linh mục trịnh trọng lặp lại
những lời của Chúa Giêsu: “Này là Mình Thầy”, “Này là chén Máu Thầy”, tức thì
bánh không còn là bánh, rượu không còn là rượu nữa, nhưng là Mình và Máu Chúa
Kitô. Đây là một chân lý cao siêu vượt quá sự hiểu biết của trí khôn loài người.
Bởi vì trước và sau khi linh mục đọc lời truyền phép, chúng ta có nhìn xem, đụng
chạm tới hay nếm bánh và rượu chưa truyền phép và đã truyền phép, chúng ta chẳng
thấy có gì khác nhau. Nhưng theo đức tin thì lại khác xa nhau một trời một vực:
một đàng là Mình Máu Thánh Chúa Kitô, một đàng là một tấm bánh nhỏ bé, một chút
rượu tầm thường. Vì thế, chúng ta gọi đây là một bí tích và là một mầu nhiệm đức
tin.
Như vậy, trong
tình yêu và vì tình yêu, Chúa Giêsu đã tìm ra một phương thế để ở lại với
các môn đệ; và qua mọi thời gian, ở lại với tất cả những ai tin vào Ngài. Vì thế,
Thánh Thể được gọi là bí tích của sự hiện diện. Dưới hình bánh và hình rượu,
Chúa Giêsu hiện diện luôn mãi với loài người nơi trần gian. Thánh thể còn là bí
tích của sự hiệp nhất. Trước hết, Thánh Thể làm cho chúng ta kết hiệp mật thiết
với Chúa Kitô, bởi vì Ngài đến với chúng ta dưới hình bánh hình rượu, làm cho
chúng ta sống bằng chính sự sống của Ngài. Đồng thời, khi kết hiệp chúng ta với
Chúa Kitô, thì thánh thể cũng kết hiệp chúng ta với nhau: được qui tụ chung
quanh một bàn ăn, chúng ta cùng uống một chén, chia sẻ cùng một của ăn, chúng
ta sống bằng chính mầu nhiệm của tình thương, chúng ta càng hiệp nhất với nhau
còn hơn là con cái của một gia đình.
Thánh Thể còn là bí
tích của sự chia sẻ: Bí tích Thánh Thể đã được Chúa Giêsu thiết lập
trong bầu khí thân tình của một bữa ăn từ giã. Tấm bánh Chúa Giêsu đã cầm và
phân chia cho các môn đệ cũng như chén rượu Ngài đã trao cho các môn đệ là để họ
cùng ăn cùng uống trong tình huynh đệ; và chính việc chia sẻ này đã được Chúa
dùng như dấu chỉ cho các môn đệ làm để nhớ đến Ngài. Cũng vậy, ý thức chia sẻ
đòi buộc mỗi người không được đóng khung những buổi cử hành Thánh Thể bên trong
nhà thờ, nhưng phải sống mầu nhiệm Thánh thể, mầu nhiệm yêu thương ngay trong
cuộc sống mỗi ngày. Chúng ta cũng không thể cử hành Thánh Thể một cách trung thực
nếu chúng ta sống dửng dưng, ích kỷ, không quan tâm đến những anh chị em chung
quanh. Nếu chúng ta nghèo của cải vật chất, chúng ta hãy chia sẻ, hãy cho tình
thương, sự thông cảm, vị tha, bác ái dưới mọi hình thức với hết mọi người.
Tóm lại, về Phép Thánh
Thể, chúng ta hãy nhớ: Thánh Thể là một bí tích. Trong Thánh Thể, có Chúa Giêsu
thật sự. Vì thế, sau khi truyền phép, không còn bánh và rượu trên bàn thờ nữa.
Chúng ta hãy siêng năng tham dự thánh lễ. Mỗi lần dâng thánh lễ là chúng ta cử
hành việc Chúa lập Phép Thánh Thể. Đàng khác, chúng ta hãy cố gắng rước lễ mỗi
khi tham dự thánh lễ, bởi vì rước lễ làm cho chúng ta kết hiệp với Chúa Kitô và
hiệp nhất với nhau; tăng thêm sức mạnh cũng như nghị lực cho chúng ta trên đường
lữ thứ trần gian; và bảo đảm sự sống đời đời của chúng ta. Như thế, bàn tiệc
Thánh Thể trở nên điểm hẹn diệu kỳ, nơi đó, chúng ta được nối kết với Chúa Kitô
và nối kết với nhau, để cùng nhau xây dựng một thế giới công bằng và tốt đẹp
hơn.
19. Chuẩn bị ăn lễ Vượt Qua – JKN
Câu hỏi gợi ý:
1. Tại sao Đức Giêsu lập
bí tích Thánh Thể khi ăn mừng lễ Vượt Qua, và Ngài cũng tử nạn và phục sinh vào
dịp đại lễ này? Điều đó có ý nghĩa gì?
2. Khác với lễ vật bị đốt
cháy hoàn toàn trong hy lễ toàn thiêu, con chiên bị sát tế vào dịp lễ Vượt Qua
lại trở nên của ăn cho con người. Bạn có nhìn thấy tương quan giữa hy lễ thập
giá và bí tích Thánh Thể không?
3. Đức Giêsu không chỉ
chịu đau khổ và chết cho con người, mà còn trở nên của ăn cho họ. Bạn có thấy
đó là mẫu gương để chúng ta bắt chước không?
Suy tư gợi ý:
1. Sự trùng hợp giữa
ba biến cố quan trọng
Đã đến thời điểm Đức
Giêsu phải sát tế chính bản thân mình làm lễ hy sinh toàn thiêu để thờ phượng
Thiên Chúa và đền tội thay cho toàn thể nhân loại. Thời điểm ấy trùng vào dịp mừng
lễ Vượt qua hàng năm của người Do Thái. Và cũng nhân dịp này Đức Giêsu lập bí
tích Thánh Thể, ngay trong bữa tiệc mừng lễ Vượt Qua với các tông đồ. Sự trùng
hợp giữa ba biến cố này - lễ Vượt Qua, việc lập bí tích Thánh Thể, và cuộc tử nạn
phục sinh của Đức Giêsu - ắt phải có một ý nghĩa rất lớn, và ba biến cố này ắt
phải liên hệ với nhau rất mật thiết. Chúng ta hãy tìm hiểu.
2. Lễ Vượt Qua của
người Do Thái
Đại lễ này bắt nguồn từ
biến cố Thiên Chúa giải phóng dân Do Thái khỏi ách thống trị của Ai Cập, xảy ra
trước Đức Giêsu khoảng 1250 năm (x. Xh 7,8-15,21). Nhờ sự can thiệp giải phóng
của Thiên Chúa, dân Do Thái được vượt từ cảnh nô lệ qua tự do. Đức Giêsu cũng đến
để giải phóng con người, làm cho họ vượt từ ách nô lệ tội lỗi và ma quỉ qua
tình trạng tự do của con cái Thiên Chúa, từ tình trạng chết trong tội lỗi qua
tình trạng sống trong ân sủng, từ đau khổ qua hạnh phúc. Ngài thực hiện sự giải
phóng đó bằng cả cuộc đời của một vị Thiên-Chúa-Nhập-Thể, đặc biệt bằng cuộc tử
nạn và phục sinh của Ngài. Cuộc tử nạn và phục sinh này cũng là một cuộc vượt
qua: vượt từ cõi chết qua cõi sống, từ tình trạng hay hư nát qua tình trạng bất
diệt. Như vậy, cuộc vượt qua của dân Do Thái qua Biển Đỏ là biến cố đi trước
làm hình bóng hay ẩn dụ cho cuộc vượt qua của Đức Giêsu, cũng là cuộc vượt qua
của những ai tin vào Ngài: vượt từ cảnh nô lệ tội lỗi qua cảnh tự do của con
cái Thiên Chúa. Vì thế, việc Đức Giêsu chọn thời điểm mừng lễ Vượt Qua để thực
hiện cuộc tử nạn và phục sinh của mình bao hàm một ý nghĩa hết sức sâu xa.
3. Hy tế toàn
thiêu và hy tế chiên vượt qua
Để cứu chuộc và giải
phóng nhân loại, Đức Giêsu phải trả giá bằng đau khổ tột cùng và chết thê thảm
như một của lễ vật bị sát tế dâng lên Thiên Chúa. Để hiểu được sự đau khổ và
cái chết của Đức Giêsu là một hy tế thờ phượng Thiên Chúa Cha và đền tội nhân
loại, và để hiểu được việc lập bí tích Thánh Thể như một của ăn tâm linh mà Đức
Giêsu để lại khi bị sát tế như một lễ vật, chúng ta cần hiểu ít nhiều về lễ hy
sinh toàn thiêu và lễ sát tế chiên Vượt Qua của người Do Thái.
Ngày xưa - ít nhất kể từ
ông Nôê trở về sau (x. St 8,20) - dân Do Thái thờ phượng Thiên Chúa bằng cách
dâng lên Ngài những hy lễ toàn thiêu. Theo tập tục được đặt ra sau này từ thời
Môsê, thì người muốn dâng hy lễ toàn thiêu phải đặt tay trên con vật khi nó bị
giết để nói lên mình là người chủ muốn dâng lễ vật ấy. Vị tư tế lấy máu của con
vật rẩy quanh bàn thờ. Rồi con vật được chặt ra thành mảnh. Vị tư tế đặt các mảnh
thịt lên bàn thờ để thiêu hủy hoàn toàn, chứ không phải thiêu cho chín để sau
đó đem ăn. Ý nghĩa của lễ toàn thiêu là con người muốn biểu lộ sự toàn phục của
mình đối với Thiên Chúa, là Chúa Tể của vũ trụ, có toàn quyền sinh sát trên
toàn thể tạo vật. Đáng lẽ con người phải tự sát tế chính mình, nhưng nếu như thế,
con người sẽ phải chết, là điều Thiên Chúa không muốn. Vì thế, con người dùng một
con vật nào đó tượng trưng cho sinh mạng của mình để giết và thiêu cháy hoàn
toàn. Điều này muốn nói lên lòng thành của con người, không tiếc với Thiên Chúa
điều gì, vì tất cả đều thuộc về Ngài. Lễ vật toàn thiêu vừa để thờ phượng và tạ
ơn Thiên Chúa, vừa để đền tội và xin ơn cho mình.
Nhưng trước ngày giải
phóng dân Do Thái khỏi ách nô lệ Ai Cập, Thiên Chúa truyền dạy một hình thức
sát tế mới được thực hiện vào các dịp đại lễ Vượt Qua hàng năm. Cách hy tế mới
khác với cách cũ ở chỗ: trong hy tế cũ - tức hy lễ toàn thiêu - thì lễ vật bị
thiêu hủy hoàn toàn, còn trong hy lễ Vượt Qua thì lễ vật cũng bị sát tế, nhưng
bị không thiêu hủy hoàn toàn: thịt con vật chỉ được nướng lên để sau đó con người
ăn nó (xem Xh 12,3-14). Trong nghi thức sát tế mới này con người cũng được dự
phần vào lễ vật, và lễ vật trở thành của ăn nuôi dưỡng con người. Đây chính là
hình bóng hay ẩn dụ cho bí tích Thánh Thể mà Đức Giêsu thiết lập vào dịp này.
4. Cuộc tử nạn của
Đức Giêsu với hy lễ Thánh Thể
Cuộc tử nạn của Đức
Giêsu chính là một hy lễ dâng lên Thiên Chúa Cha. Trong hy lễ này, Ngài vừa là
chủ dâng, vừa là tư tế, vừa là lễ vật. Bình thường ba khoản này khác nhau; tuy
nhiên, cũng có thể chủ dâng cũng là tư tế, nhưng cả hai người ấy dường như
không bao giờ lại là lễ vật. Vì lễ vật là đối tượng bị giết, chịu đau khổ và chết
thay cho chủ dâng hay thay cho kẻ có tội phải đền mạng. Trong hy lễ toàn thiêu
này, Đức Giêsu tự nguyện làm lễ vật bị sát tế, chẳng những để thờ phượng và tạ
ơn Thiên Chúa thay cho con người, mà còn để đền tội cho toàn thể nhân loại, đồng
thời xin ơn tha thứ cho họ. Sự tự nguyện khủng khiếp này chỉ có thể phát xuất từ
tình yêu cao cả đối với Thiên Chúa và toàn thể con người, đồng thời từ sự toàn
phục đối với Thiên Chúa Cha.
Nhưng hy lễ này, Đức
Giêsu không muốn thực hiện theo kiểu hy lễ toàn thiêu, trong đó lễ vật hoàn
toàn bị thiêu hủy. Kiểu hy tế ấy biểu hiện tính «vì Thiên Chúa» một cách triệt
để. Ngài muốn thực hiện hy lễ của Ngài theo kiểu hy lễ chiên vượt qua, trong đó
lễ vật ngoài việc dâng hiến cho Thiên Chúa, còn trở nên của ăn cho con người.
Kiểu hy tế này mang tính hai chiều: vừa «vì Thiên Chúa» mà cũng vừa «vì con người
». Đó là hai chiều kích căn bản trong việc nhập thể của Ngài và trong Giao Ước
Mới do Ngài thiết lập. Khi tự nguyện làm lễ vật bị giết, Ngài chọn chết trên thập
giá - là bàn thờ của hy tế này - được cấu tạo bằng hai chiều ngang và dọc, tượng
trưng cho hai chiều kích căn bản ấy.
5. Tình yêu Đức
Giêsu dành cho con người
Vì thế, trước khi ra đi
chịu tử hình thập giá, tự nguyện làm «Con Chiên Vượt Qua» bị sát tế, Đức Giêsu
đã lập phép Thánh Thể để lễ vật bị sát tế ấy là chính Ngài trở nên của ăn tâm
linh nuôi dưỡng con người. Tôi thật xúc động khi nghĩ đến điều này. Ngài vốn là
Thiên Chúa, là Con Thiên Chúa, nhưng Ngài lại yêu thương con người chúng ta vô
hạn. Tình yêu của Ngài đối với chúng ta là một đối trọng cho tình yêu của Ngài
đối với Thiên Chúa. Và chính Thiên Chúa cũng hài lòng khi thấy Con mình biết
chia sẻ cho nhân loại tình yêu mà đáng lẽ phải dành trọn vẹn cho mình. Tại sao?
Chính vì Thiên Chúa cũng yêu thương con người. Điều này có phần nào tương tự
như người chồng đòi hỏi người vợ phải dành trọn vẹn tình yêu và sự trìu mến cho
mình, nhưng lại rất hài lòng khi thấy vợ mình chia sẻ tình yêu và sự trìu mến ấy
cho con cái, vì chính người chồng cũng yêu thương con cái không kém gì người vợ.
Như vậy, Ba Ngôi Thiên Chúa đã chia sẻ cho chúng ta tình yêu mà đáng lẽ các
Ngài phải dành trọn vẹn cho nhau. Điều đó chúng ta thấy được nơi Đức Giêsu.
Ngài đến thế gian không
chỉ nghĩ đến việc thi hành thánh ý Chúa Cha, đến việc biểu lộ tình yêu, sự vâng
phục đối với Chúa Cha, mà còn nghĩ rất nhiều đến con người, đến việc sáng kiến
ra những điều Ngài có thể làm cho con người. Ngài yêu con người, chắc chắn
không chỉ vì con người là tạo vật của Thiên Chúa được nâng lên hàng con cái
Ngài, mà còn vì thấy con người rất đáng thương, quá đau khổ do tội lỗi. Càng
chia sẻ đau khổ với con người, càng cảm nghiệm được sự dày vò khó chịu của đau
khổ, Ngài càng yêu thương con người hơn. Tình yêu đầy tính cảm thông đó khiến
Ngài không chỉ đau khổ và chết thay cho chúng ta, mà còn mà trở nên của ăn để
nuôi dưỡng chúng ta, để ở lại với chúng ta, để có thể ban sức mạnh thần thiêng
cho chúng ta, để đời sống chúng ta nên mạnh mẽ, hạnh phúc hơn.
6. Áp dụng tinh thần
yêu thương của Đức Giêsu vào đời sống
Thiên Chúa cảm thông và
yêu thương chúng ta như vậy, lẽ nào chúng ta lại không cảm thông và yêu thương
nhau? Tình yêu của Đức Giêsu có hai chiều kích: yêu Thiên Chúa và thương con
người, lẽ nào chúng ta cùng là con người với nhau lại chỉ quan tâm đến Thiên
Chúa mà không quan tâm đến nhau? Là một Thiên Chúa yêu thương, chắc chắn Ngài
muốn chúng ta yêu thương nhau, quan tâm đến nhau hơn là quan tâm đến Ngài. Tại
sao? Vì những người chung quanh chúng ta cần tình yêu và sự quan tâm của chúng
ta hơn Ngài rất nhiều. Ngài là Thiên Chúa - Đấng không thiếu thốn sự gì và cũng
không hề ích kỷ - Ngài không cần tình yêu và sự quan tâm của chúng ta cho bằng
những người chung quanh đang sống với chúng ta. Tại sao chúng ta lại quá quan
tâm tới Ngài mà bỏ rơi anh chị em mình? Trong thực tế, chính khi ta yêu thương
và quan tâm đến anh chị em mình, là chúng ta yêu mến Thiên Chúa. Nếu yêu mến
Thiên Chúa thì hãy bắt chước Đức Giêsu: chẳng những chấp nhận chịu khổ để anh
chị em mình đỡ khổ, mà còn trở nên «của ăn» cho anh chị em mình nữa.
Cầu nguyện
Lạy Cha, Đức Giêsu là
Thiên Chúa mà lại yêu thương con người như vậy, đang khi chúng con cùng là con
người với nhau, cùng chịu đau khổ như nhau, mà chúng con lại không thông cảm với
nhau, không yêu thương nhau, không quan tâm tới nhau. Chúng con quá ích kỷ,
tình yêu của chúng con quá nghèo nàn. Xin Cha hãy ban tình yêu cho chúng con.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét