Các bài cùng chủ đề:
Bài: Sứ điệp Fatima
Bài: Sứ điệp Fatima (tiếp theo)
Bài: Sự khả tín của Sứ Điệp Fatima
Bài: Sứ Điệp Fatima, sứ điệp hòa bình
Bị
ảnh hưởng và bị chi phối nặng nề bởi trào lưu vô thần, não trạng tôn
thờ và hưởng thụ vật chất thái quá, con người ngày nay thường coi nhẹ
tội lỗi, nên họ dễ dàng sa phạm tội. Từ quan niệm lệch lạc ấy, một số
không nhỏ các Kitô hữu đã trở nên thờ ơ và ít quan tâm tới việc lãnh
nhận Bí tích Cáo Giải và đồng thời vẫn tiếp tục rước Mình Thánh Chúa. Ở
Đức vào thập niên 60 của thế kỷ vừa qua, triết gia Max Scheler
(1928-2003) đã trình bày một hiện tượng – được coi là còn khá mới mẻ vào
lúc bấy giờ – làm cho nhiều người đồng thời không khỏi bỡ ngỡ và thắc
mắc, khi ông cho rằng, lúc làm trắc nghiệm một cách khách quan người ta
thấy rằng khi tội lỗi càng nhiều thì ý thức về tội càng giảm thiểu và
vơi nhẹ đi; trong khi đó, nếu việc sa ngã và phạm tội càng ít đi thì ý
thức về tội càng tăng lên và càng nhạy bén hơn. Điều này muốn khẳng định
rằng các người lành thánh thường cảm thấy mình là kẻ có tội, vì họ luôn
ý thức được các tư tưởng và các hành động phải trái của mình, dù chúng
nhỏ mọn đến đâu, và nhận ra được từng khiếm khuyết và lỗi lầm của mình,
trong khi đó các kẻ phạm trọng tội lại cảm thấy hành động tội phạm của
họ vẫn bình thường và lương tâm không hề cắn rứt chút nào. Dựa theo kết
quả này, người ta chủ trương cứ sống bừa bãi và phạm tội, vì họ cho rằng
việc ý thức có tội hay không hoàn toàn chỉ là một hiện tượng thuần tuý
tâm lý mà thôi. Bởi thế, tình trạng luân lý của thế giới ngày nay đang
trên đà xuống dốc một cách khủng khiếp: các trào lưu tục hóa, ăn chơi
trụy lạc, truyền bá cách sống vô luân đồi trụy và khiêu dâm đang được
phổ biến một cách công khai và rầm rộ trên các phương tiện truyền thông
đại chúng, kể các phương diện truyền thông các nhà nước.
Thực
ra, sự ghi nhận của Max Scheler không hề là một khám phá mới mẻ, nhưng
là phản ứng bình thường của con người. Chẳng hạn: khi người ta ngồi lâu
trong một căn phòng khép kín, người ta cảm thấy bầu không khí trong căn
phòng vẫn bình thường, chứ không có gì khác lạ cả, trong khi đó một
người từ bên ngoài bước vào thì cảm nhận ngay là bầu không khí trong căn
phòng khép kín ấy quá ngột ngạt và khó chịu, chứ không trong lành, nhẹ
nhàng và dễ thở như bầu không khí ở ngoài trời khoáng đạt. Cũng thế, khi
con người triền miên trầm mình trong tội lỗi, thì lương tâm họ đâm ra
chai lỳ và thiếu nhạy cảm, khiến họ không còn cảm nhận được sự ghê tởm
và nặng nề của tội lỗi nữa. Trong khi đó, những người lương thiện và
lành thánh luôn tránh xa mọi tội lỗi và hướng tâm tìm kiếm một cuộc sống
trọn lành hoàn hảo, thì lương tâm họ tựa như một cây đàn căng dây, chỉ
một hạt bụi nhỏ rớt xuống va chạm vào cũng đủ làm vang lên tiếng ngân,
chỉ một lỗi lầm nhỏ mọn cũng đủ làm cho họ ray rứt áy náy. Và đó mới
chính là sự thật, chứ kết quả sự trắc nghiệm của Max Scheler về cảm giác
vô tội của những kẻ trầm mình sống trong tội lỗi không hề liên quan gì
tới bản chất xấu xa và nặng nề của tội lỗi.
Nhưng
điểm đáng sợ ở đây không phải là những điều ghê tởm xảy đến – một điều
mà trước kia chắc hẳn cũng đã từng xảy ra – nhưng là cách thức những
điều ghê tởm ấy xảy ra: chúng không còn xảy ra cách e dè lén lút, nhưng
một cách công khai, ngang ngược và vô luân; và nhất là đại đa số con
người ngày nay nói chung và rất nhiều các Kitô hữu nói riêng – những
người đã bị trào lưu tục hóa quá trớn của xã hội duy vật chất ngày nay
chi phối một cách nặng nề – đã đánh mất hết mọi cảm thức về tôn giáo, về
Thiên Chúa, về các thực tại siêu nhiên vô hình và về cả cuộc sống vĩnh
cửu mai hậu. Vì thế, họ cũng không còn ý thức đầy đủ về tội lỗi nữa, hay
ít ra họ đã hiểu và phán đoán một cách lệch lạc về tội lỗi, về những
điều đi ngược lại lý trí, đi ngược lại luật luân lý tự nhiên của Tạo
Hóa. Và hiệu quả tất yếu của một quan niệm sai lạc như vậy là người ta
cảm thấy không cần phải sám hối và hoàn lương, và vì thế họ trở nên xa
lạ với Bí tích Hòa Giải và tìm cách loại bỏ tòa giải tội ra khỏi các nhà
thờ, và thay vào đó, người ta chỉ truyền bá và thực hành “lễ nghi thống
hối”, tức giờ suy niệm chung về tội lỗi, và coi đó như một hình thức
“xưng tội chung.” Nhưng trên thực tế, lễ nghi thống hối chỉ là một giờ
suy niệm, một sự sửa soạn, giúp chúng ta ý thức đầy đủ và sâu sắc hơn về
bản chất tội lỗi trước khi chúng ta bước vào tòa cáo giải để xưng tội
và qua đó để lãnh nhận Bí tích Hòa Giải, chứ tự bản chất của nó, lễ nghi
thống hối không phải là Bí tích.
Để
sửa sai và vạch trần các trào lưu và quan niệm sai lầm tai hại ấy, Sứ
điệp Fatima đã cảnh cáo nhân loại trước các xúc phạm tới Thiên Chúa và
kêu mời mọi người hãy sám hối các tội lỗi của mình và trở về cùng Thiên
Chúa. Đặc biệt nhất trong lần hiện ra lần cuối cùng vào ngày 13.10.1917,
Đức Mẹ đã khẩn thiết nhắc nhủ: “Nhân loại phải cải thiện cuộc sống, phải khẩn cầu ơn tha thứ các tội lỗi họ đã phạm.” Nhất là Đức Mẹ đã nhấn mạnh bằng những lời nghiêm trọng này: “Nhân loại thôi đừng xúc phạm tới Thiên Chúa nữa, vì Người đã bị xúc phạm quá nhiều rồi!”
Những
lời cảnh cáo trên đây của Mẹ Thiên Chúa là một sự thật hiển nhiên, hoàn
toàn trùng hợp với cuộc sống thực tế sa đọa của xã hội nhân loại ngày
nay nói chung và cuộc sống cụ thể của mỗi người nói riêng. Bởi vậy,
người ta đừng coi thường những lời cảnh cáo nghiêm trọng ấy, vì viện lý
do: đó chỉ là những mặc khải tư. Không, những gì được Đức Mẹ nhắn nhủ
qua ba trẻ tại Fatima không gì khác hơn là chính những mặc khải vô cùng
quan trọng của Thiên Chúa dành cho toàn thể nhân loại, tức Người muốn
nhân loại phải từ bỏ tội lỗi, cải thiện cuộc sống và hoàn toàn quay trở
về cùng Người, hầu họ khỏi bị hư mất đời đời, nhưng là được cứu sống.
Và
vì não trạng con người ngày nay coi nhẹ sự tai hại và nguy hiểm của tội
lỗi cũng như dễ dàng để mình vướng mắc vào các thứ tội lỗi, nên người
ta cũng xa lạ với những ý niệm “đền bù, phạt tạ tội lỗi”, “hy sinh hãm mình” hay “thực hành các việc lành”,
v.v…, và coi chúng là những thực hành không những dư thừa vô ích mà còn
làm cho con người trở nên hèn yếu, mất tự tín. Phải chăng đây là một sự
ngụy biện của những kẻ không muốn hay không đủ can đảm từ bỏ lối sống
tội lỗi và cải thiện cuộc sống mình? Và phải chăng sự ngụy biện sai lạc
đó là dấu chỉ một đức tin èo uột và đang trên đường phai nhạt dần?
Bởi
vì, sự thực hành việc đền bù tội lỗi, sự hy sinh hãm mình và làm các
việc lành phúc đức không phải là những phát hiện do trí tưởng tượng của
những người đạo đức bày đặt ra, nhưng hoàn toàn bắt nguồn trong Kinh
Thánh và đã được chính Mẹ Thiên Chúa khẩn thiết nhắc lại trong các lần
Mẹ hiện ra, ở Lộ Đức, ở Fatima cũng như ở các nơi khác trên khắp thế
giới. Tuy mới vừa xấp xỉ bảy tuổi, tâm hồn hãy còn hoàn toàn trong
trắng, nhưng Gia-xin-ta đã hiểu rõ lời yêu cầu sám hối và hy sinh hãm
mình để cầu nguyện cho các kẻ có tội của Mẹ Maria, và để đáp lại lời yêu
cầu của Đức Mẹ, em đã can đảm chịu đựng mọi thử thách và nhất là các
cơn đau đớn dữ dội do chứng bệnh bất trị của em gây ra. Và đây, những
lời vĩnh biệt đầy đơn sơ trong trắng và thánh thiện, nhưng cũng vô cùng
cảm động và can trường của Gia-xin-ta khi em đứng bên giường hấp hối của
anh trai mình là Phanxicô: “Khi về Thiên đàng anh nhớ chào Chúa Cứu
Thế và Đức Mẹ thật nhiều giùm em. Xin anh thưa với các Ngài rằng, vì
các kẻ có tội em luôn sẵn sàng chịu đựng tất cả mọi đau khổ như các Ngài
muốn, để an ủi Trái Tim Vô Nhiễm của Mẹ Maria.”
Đây
quả thực là một sự khôn ngoan và sức mạnh chịu đựng hy sinh phi thường
hiếm có nơi một đứa trẻ mới lên bảy, và chỉ với mục đích duy nhất là để
làm đẹp lòng Thiên Chúa, an ủi Trái Tim Vô Nhiễm Mẹ Maria và để cầu
nguyện cho các kẻ có tội được ơn ăn năn trở lại! Phải chăng nhân loại
nói chung và các Kitô hữu chúng ta nói riêng không khỏi xấu hổ và tự vấn
lương tâm mình trước tấm gương đạo đức thánh thiện và đầy quả cảm của
Gia-xin-ta, của một em bé mới lên bảy như thế?
Phải
chăng không phải là một trách nhiệm nặng nề và bó buộc đối với lương
tâm các Kitô hữu chúng ta, nếu một đàng chúng ta biết rằng, nhiều dân
tộc và cả thế giới rất có thể sẽ bị tiêu diệt – một điều mà với các thứ
vũ khí tối tân ngày nay rất có thể xảy ra – nhưng một đàng khác chúng ta
lại cũng biết chắc rằng, chúng ta có thể góp phần vào việc tránh cho
các dân tộc ấy và cả thế giới khỏi rơi vào hố diệt vong qua việc siêng
năng sốt sắng cầu nguyện, cải thiện cuộc sống và chấp nhận mọi hy sinh
trong cuộc sống hằng ngày của mình?
Vâng,
một trách nhiệm vô cùng linh thiêng đối với tất cả mọi Kitô hữu chúng
ta và đối với mỗi người trong chúng ta là phải thực thi các phương tiện
khả thi nhưng đầy hiệu quả ấy, để cứu vãn các dân tộc và cả thế giới
khỏi bị tiêu diệt. Vì thế, nếu chúng ta sao nhãng không thực thi các
phương tiện khẩn thiết ấy, chắc chắn chúng ta không tránh khỏi trách
nhiệm trước sự tiêu diệt của đồng loại. Thái độ khinh suất và sao nhãng
việc cầu nguyện, việc cải thiện cuộc sống và ăn năn sám hối cũng như
việc đền bù các tội lỗi của mình là một tội ác đối với nhân loại, vì qua
đó nhân loại bị hủy hoại và hư mất. Thiên Chúa là Đấng đầy nhân hậu và
khoan dung, nhưng nếu con người khinh thường và không cần đến lòng nhân
hậu vô biên của Người, thì Thiên Chúa cũng không thể cứu họ khỏi sự tiêu
diệt được! Sự cứu sống hay sự hủy hoại của cả nhân loại hoàn toàn tùy
thuộc vào sự cộng tác của chúng ta với ơn thánh và lòng từ bi nhân hậu
của Thiên Chúa.
Lm JB. Nguyễn Hữu Thy
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét