Nhân
ngày ơn thiên triệu, tôi được vài tu sĩ trẻ yêu cầu cho họ ít lời
khuyên bảo và khích lệ. Tôi đã làm việc đó cách vui vẻ và nhiệt thành.
Nhưng sau đó, tôi bỗng nghĩ tới chính mình, chính con đường ơn gọi của
mình, và tự hỏi: Liệu những điều tôi khuyên bảo kẻ khác đó, tôi có áp
dụng cho mình không?
Ơn
gọi linh mục và tu sĩ thường được gọi là ơn thiên triệu: đó là một ơn,
và như tất cả mọi ơn Chúa ban, đó là một "quà tặng" hoàn toàn "nhưng
không", nghĩa là hoàn toàn do tình thương của Thiên Chúa muốn ban cho ai
tùy ý Người, không dựa trên công đức nào của kẻ nhận ơn. Giáo Hội nói
ơn thiên triệu là một mầu nhiệm, một điều bí mật của cõi lòng Thiên Chúa
mà không lý lẽ nào về phía con người tôi có thể giải thích. Nhắc lại
như thế để người được gọi luôn giữ lòng khiêm nhường và nuôi dưỡng tâm
tình cảm tạ đối với Đấng đã gọi mình. Những tu sĩ, linh mục cao tuổi như
tôi dễ quên mất điều đó. Tu lâu rồi, quen rồi, nên người ta dần dần coi
con đường tu hành của mình là "đương nhiên phải thế", người ta hết còn
thán phục và biết ơn về mầu nhiệm ơn gọi của mình.
Trong
đức tin, tôi xác tín ơn gọi phát đi từ Thiên Chúa như Đấng có sáng kiến
trước, nhưng như mọi thực tại siêu nhiên khác, ơn ấy đến với tôi qua
trung gian của những thực tại tự nhiên, qua những con người, những biến
cố thông thường. Năm ngoái, gia đình một người bạn cũ từ Bỉ qua, có mời
tôi đến ăn điểm tâm tại một khách sạn nhỏ nằm ở trung tâm thành phố.
Người bạn đó nguyên là một linh mục làm tuyên úy cho nhóm sinh viên Việt
Nam tại đại học Louvain, Bỉ trong những năm 60, về sau anh hồi tục, lập
gia đình với một người trong nhóm sinh viên người Việt đó. Trong bữa ăn
cũng có mặt hai cặp vợ chồng người Bỉ khác cùng đến thăm Việt Nam với
gia đình ông bạn tôi. Gần cuối bữa ăn, trong câu chuyện vui vẻ, bỗng một
người trẻ nhất trong nhóm đột ngột hỏi tôi: "Nếu không có gì quá riêng
tư, tôi xin hỏi cha một câu, tùy cha muốn trả lời hay không cũng chẳng
sao: Tại sao cha đi tu dòng Phanxicô mà không đi tu triều hay một dòng
khác?" Tôi trả lời ngay, không phải ngẫm nghĩ gì cả, tôi nói đại ý:
chuyện tôi đi tu có lẽ cũng giống như chuyện một người lập gia đình vậy.
Tại sao lấy ông này, bà kia mà không phải là ai khác? Hoàn cảnh mà hai
người gặp nhau, quen nhau, thương nhau, nhìn từ ngoài, có vẻ như tình cờ
nhưng đối với những người trong cuộc thì không phải như thế. Ở Việt Nam
chúng tôi hay nói tới duyên số. Tôi vào chủng viện dòng Phanxicô năm
1949, ở Nghệ An trong thời kháng chiến chống Pháp, lúc đó ở Nghệ An chỉ
có một dòng duy nhất là dòng thánh Phanxicô mới lập tại Vinh được 20
năm. Tôi biết dòng nhờ những ông thầy đi khất thực trong giáo phận trong
những năm chiến tranh khó khăn, đói kém. Không thể nói là tôi chọn
dòng. Nhưng về sau, nhìn lại con đường tu hành của mình tôi cảm nghiệm
như một cái gì nhiệm mầu vì nó hệ trọng và quyết định cả đời tôi. Câu
trả lời của tôi đến tự nhiên và chân thành, hình như thuyết phục được
người nghe vì tôi thấy họ gật gù và tỏ ra bằng lòng.
Tôi
vừa nói người đi tu cũng giống như người lập gia đình. Nghi thức tuyên
khấn của một vài dòng nữ mang dáng dấp một lễ cưới, và hình như tất cả
mọi nữ tu đã khấn trọn đời đều đeo một chiếc nhẫn ở ngón tay như người
phụ nữ có chồng. Không thấy những dấu hiệu bề ngoài trong một lễ khấn
của nam tu sĩ cho thấy đó là một "hôn ước", nhưng trong bản chất, mọi
cuộc khấn dòng đều là một "giao ước tình yêu": ở đây cũng có hai tự do,
hai cuộc đời - một con người và Đức Giêsu Kitô - đi vào nhau, ràng buộc
vào nhau để xây dựng một cuộc sống chung trong lòng chung thủy trọn đời.
Chúa thì không thể thiếu chung thủy bao giờ rồi, còn phía tôi thì sao?
Nếu không có những phản bội trầm trọng thì đã là khá rồi, làm sao tránh
khỏi những thất trung thất tín này nọ? Lại nữa, tôi có hạnh phúc không
và tôi có làm cho Chúa hạnh phúc không, - nếu được phép nói như thế? Có
giáo dân đã trách Giáo Hội không công bằng: hôn phối thì không bao giờ
cho hủy, còn lời khấn (và chức vụ linh mục) lại được "chuẩn" khá dễ
dàng. Tôi không bàn cãi về ý kiến này, nhưng muốn coi đó như một lời
nhắc nhở cho mình.
Trong
hôn nhân, nhiều cặp vợ chồng về già sống với nhau trong một tình yêu
không sôi nổi nhưng thật sâu đậm, thật đơn sơ, tự nhiên; cuộc sống chung
dài với nhau đã làm cho họ hiểu nhau như hiểu chính mình, hiểu nhau
không cần lời nói, và họ trở nên giống nhau trong suy nghĩ, sở thích,
trong cách làm và nhiều khi cả trong nói năng nữa, có điều là thường
thường họ không còn ý thức về sự "đồng hóa" đó. Nhìn họ mà đôi khi tôi
cảm thấy xấu hổ vì mình còn xa mới sống với Chúa được như thế. Tôi là
người phải giảng dạy nhiều, nên thuờng xuyên có dịp nghĩ về Chúa, viết
hay nói về Chúa, nhưng từ chỗ nói về Chúa đến chỗ nói với Chúa, từ chỗ
coi Chúa là ngôi thứ ba đến chỗ sống với Người như ngôi thứ hai thân
thiết là cả một quãng cách xa!
Tôi
rất thích bài hát nhan đề Xin Giữ Con, không nhớ rõ của ai, của nhạc sĩ
Mi Trầm chăng? Nếu tôi không lầm thì tác giả phổ nhạc một lời cầu
nguyện của cha Các Ra-ne (Karl Rahner), nhà thần học dòng Tên người Đức
nổi tiếng.
Xin giữ con để con phụng sự Chúa,
(con phụng sự Chúa) trong suốt đời con,
Dù khi mỏi mệt, dù khi chán chường,
Xin giữ con luôn luôn phụng sự Ngài!...
Xin giữ con để con được đổi mới,
Đây đời của con sẽ mãi đẹp tươi,
Dù khi phản bội, dù khi lỗi tội,
Xin giữ con khiêm cung về với Ngài!...
(con phụng sự Chúa) trong suốt đời con,
Dù khi mỏi mệt, dù khi chán chường,
Xin giữ con luôn luôn phụng sự Ngài!...
Xin giữ con để con được đổi mới,
Đây đời của con sẽ mãi đẹp tươi,
Dù khi phản bội, dù khi lỗi tội,
Xin giữ con khiêm cung về với Ngài!...
Không
biết tôi có lầm chăng khi nghĩ rằng đây là tâm tư của cha Các Ra-ne về
cuộc đời tu sĩ linh mục của ngài. Ngài nhìn lại con đường ơn gọi của
mình trong tâm tình khiêm cung, nó không luôn luôn bằng phẳng, không
luôn luôn nằm ở mức cao, nhưng chung qui lại vẫn cố gắng trung thành và
không ngừng "bắt đầu lại" trong niềm hy vọng. Mỗi lần hát hay nghe hát
bài này, tôi đều xúc động mạnh. Hôm nay, Ngày Ơn Thiên Triệu, tôi lại
muốn ngâm nga bài hát đó như một lời cầu nguyện của riêng mình.
Lm Nguyễn Hồng Giáo ofm
(Nguồn: giaophanvinh.net)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét